Page 656 - DIA CHI TUYEN QUANG_PHAN DAU
P. 656

656     ĐỊA CHÍ TUYÊN QUANG



               lượng đường cao và khả năng thích ứng           nuôi bò. Tỉnh có nhiều chương trình lồng
               rộng,  chống  chịu  rét,  hạn  tốt  như  VA06,   ghép,  trợ  giúp  chăn  nuôi  bò;  thực  hiện
               gắn kết chương trình cải tạo đàn trâu với       sind hoá đàn bò nhằm cải tạo giống bò địa
               việc tận dụng triệt để các nguồn phế, phụ       phương, nâng tầm vóc và năng suất chăn
               phẩm  của  nông  nghiệp  như  rơm,  rạ,  lá     nuôi, tạo điều kiện để ngành chăn nuôi bò
               ngô, lá mía để đáp ứng đủ lượng thức ăn         của tỉnh phát triển nhanh, vững chắc.

               thô xanh cho chăn nuôi đại gia súc.                 - Lợn: đã gắn bó lâu đời với sản xuất
                   Ở  vùng  núi  cao,  mùa  đông  giá  rét,    lúa của nông dân Tuyên Quang. Gạo, cám,
               thiếu  thức  ăn  nên  trâu  hay  bị  chết  rét.   ngô, sắn là thức ăn tinh chủ yếu của lợn,
               Những năm gần đây, nông dân đã cải tiến         sản xuất lúa càng phát triển thì chăn nuôi
               phương  pháp  nuôi,  chuyển  từ  nuôi  thả      lợn càng có điều kiện phát triển theo. Phát
               rông sang nuôi nhốt chuồng, tích trữ thức       triển chăn nuôi lợn thì vừa tận dụng được
               ăn trong mùa khô, che gió cho trâu trong        phế phụ phẩm nông nghiệp vừa cung cấp
               mùa đông.                                       phân bón cho cây trồng. Bởi vậy, nhân dân
                   -  Bò:  Những  năm  trước  đây,  bò  ít     có nhiều kinh nghiệm trong chăn nuôi lợn.

               được nuôi để cày bừa mà để kéo xe, sinh             Từ khi hợp tác hoá nông nghiệp, ngành
               sản. Nhưng hiện nay, đàn bò của tỉnh phát       chăn nuôi lợn mới phát triển mạnh; gần
               triển nhanh theo hướng nuôi sinh sản và         như mọi người dân đều chăn nuôi lợn, kể
               lấy  thịt  theo  cách  sản  xuất  hàng  hoá.  Vì   cả các hộ công nhân, viên chức nhà nước.
               vậy đã có nhiều hộ nuôi hàng chục con bò        Người chăn nuôi không được tự ý giết mổ;
               sinh sản để bán bê giống (bê cái) và bê thịt    trong những ngày lễ, tết, việc giết mổ lợn

               (bê đực).                                       do hợp tác xã điều hành, phân phối.
                                                                   Từ khi đổi mới kinh tế đến nay, chăn
                   Năm 2000, đàn bò của tỉnh có 19.322         nuôi lợn có bước phát triển vượt bậc. Một
               con và tăng dần, đến năm 2013 có 17.533         mặt  do  lương  thực  dồi  dào,  kỹ  thuật  và
               con.  Năm  2008,  đàn  bò  phát  triển  mạnh    phương thức chăn nuôi có nhiều thay đổi,
               nhất, cả tỉnh có 56.151 con, phát triển mạnh    nhiều  hộ  phát  triển  chăn  nuôi  lợn  theo
               nhất ở các huyện Sơn Dương và Yên Sơn.          kiểu trang trại, nuôi công nghiệp hoặc bán
                   Gần đây, phát triển chăn nuôi bò sữa:       công nghiệp làm cho năng suất chăn nuôi
               các giống bò sữa Hà Lan được nhập nội           tăng lên; mặt khác, do đời sống nhân dân

               và  lai  tạo  hoặc  bò  lai  sind.  Tuy  nhiên,   ngày càng được cải thiện, nhu cầu về thịt
               giá sữa thấp và không ổn định, giá thức         lợn tăng nhanh nên đã thúc đẩy chăn nuôi
               ăn cao làm người chăn nuôi không thiết          lợn theo hướng sản xuất hàng hoá.
               tha với con bò sữa. Hiện nay, đàn bò sữa            Tổng đàn lợn của tỉnh từ 173.700 con
               của Tuyên Quang đang được phục hồi và           (năm  1990)  tăng  lên  266.100  con  (năm
               phát triển, tổng số đàn bò năm 2013 ước         2000) và đến năm 2013 đã lên tới 498.974

               đạt 2.783 con, sản lượng sữa năm 2010 đạt       con. Những huyện có đàn lợn lớn là: Sơn
               9.837 nghìn lít.                                Dương có 119.469 con, Yên Sơn có 109.243
                   Chăn nuôi bò là ngành sản xuất mang         con, Chiêm Hóa có 104.756 con. Đàn lợn
               lại  hiệu  quả  cao  cho  nhiều  hộ  nông  dân   nái  cũng  tăng  nhanh,  tổng  đàn  nái  năm
               trong  thời  gian  vừa  qua.  Do  nhu  cầu  về   2010 của tỉnh có 51.110 con, có xã có gần
               con giống cho chăn nuôi rất lớn nên nhiều       90% số hộ nuôi lợn nái, có nhiều hộ nuôi
               hộ đã trở nên giàu có vì chăn nuôi bò sinh      4-5 con. Đàn lợn đực giống năm 2010 có
               sản, nhiều hộ thoát khỏi nghèo đói do chăn      2.290 con (xem Bảng 19).
   651   652   653   654   655   656   657   658   659   660   661