Page 664 - DIA CHI TUYEN QUANG_PHAN DAU
P. 664

664     ĐỊA CHÍ TUYÊN QUANG



               đặc biệt là gỗ và dược liệu tăng lên nhanh      chặt phá. Nếu để trâu, bò vào rừng làm đổ
               chóng. Từ đó, phương pháp khai thác lâm         cây, gẫy măng thì sẽ bị phạt rất nặng.
               sản có sự thay đổi. Để có số lượng lớn,              Như vậy, dưới thời phong kiến, việc
               phương pháp “chặt tìm” được thay bằng           khai thác các nguồn lợi từ rừng như gỗ,
               phương  pháp  “chặt  chọn”.  Song  song         các loại dược liệu và các đặc sản đã được
               với quá trình trên, nhiều dân tộc đã đến        chú ý. Tuy nhiên, nhu cầu về lâm sản thời

               Tuyên Quang định cư, khai hoang rừng            kỳ này không lớn nên sản lượng khai thác
               thành đồng ruộng, xóm làng. Vì thế, rừng        thấp, chủ yếu cho sinh hoạt và mở rộng
               tiếp tục bị xâm hại, giảm về chất lượng và      đất canh tác.
               diện tích.
                   Trong  thời  gian  dài,  chính  quyền           2. Thời kỳ pháp thuộc 1884-1945
               phong  kiến  Việt  Nam  hầu  như  không             Đầu thế kỷ XX, chính quyền thực dân
               đánh thuế sản vật rừng. Từ thời Lý trở đi,      Pháp  chia  vùng  đất  Tuyên  Quang  thành
               chính  quyền  mới  bắt  đầu  có  những  quy     hai tỉnh là Tuyên Quang và Hà Giang.
               định, những luật lệ về lâm nghiệp.                  Để  quản  lý  rừng  và  toàn  bộ  những

                   Thời  kỳ  này,  ở  Tuyên  Quang,  do  hệ    hoạt  động  khai  thác  tài  nguyên  rừng  ở
               thống  giao  thông  đường  bộ  còn  rất  hạn    Tuyên  Quang,  thực  dân  Pháp  đã  cho  áp
               chế nên đường sông (sông Lô, sông Gâm)          dụng các quy chế về lâm nghiệp đã được
               là tuyến vận chuyển lâm sản chính.              ban hành từ năm 1875 ở Đông Dương. Các
                   Tuy  vậy,  việc  khai  thác  lâm  sản  vẫn   quy  chế  này  đặt  ra  những  quy  định  về:
               chưa  có  luật  lệ  chung.  Tuyên  Quang  có    cấp giấy phép khai thác, thủ tục trình báo

               nhiều dân tộc sinh sống với nhiều tập tục       khi khai thác, vận chuyển gỗ và quy định
               truyền thống khác nhau nên mỗi làng xã          đường kính tối thiểu được phép khai thác
               tự đề ra các quy ước riêng, hình thành nên      đối với 43 loại cây gỗ (được phân thành
               những luật tục của mỗi làng. Ở nhiều bản        bốn nhóm), hầu hết cây được phép khai
               người Dao đã có những quy ước chung về          thác phải có đường kính từ 45 cm trở lên.
               bảo vệ rừng và nguồn nước khá chặt chẽ              Năm 1924, Sở Lâm nghiệp của chính
               mà ngày nay một số điều khoản vẫn được          quyền Pháp đã được thiết lập trên toàn cõi
               duy trì. Tiêu biểu như các bản Nà Lạ, Nà        Đông Dương, nhằm trợ giúp chính quyền

               Con, Phia Chang của đồng bào Dao ở xã           trung ương quản lý rừng theo từng phân
               Sơn Phú, huyện Nà Hang, có các quy định:        khu.  Thời  kỳ  này  toàn  miền  Bắc  được
                   - Trong khu vực đất bản, mọi nhà đều        chia thành sáu phân khu, trong đó Tuyên
               được  quyền  khai  phá  nương  rẫy  nhưng       Quang có khoảng 70.000 ha rừng.
               không  được  phá  rừng  đầu  nguồn,  rừng           Thực dân Pháp cho thành lập ở Tuyên
               cấm, đất có chủ. Người nơi khác đến cư          Quang  một  hệ  thống  quản  lý  rừng  khá

               trú, sinh sống trên đất bản phải được sự        chặt  chẽ,  đặc  biệt  là  hệ  thống  kiểm  lâm.
               đồng ý của trưởng bản, và phải có lễ vật        Theo  Công  sứ  Lupi,  “ở  Tuyên  quang  có
               nhỏ (một con gà, một chai rượu) để cúng         bốn  hạt  kiểm  lâm  là:  Tuyên  Quang,  Yên
               tế thổ thần, tạ ơn dân bản. Người mới đến       Bình, Phan Lương, Chiêm Hóa và một lâm
               chỉ được canh tác ở những nơi được phép.        trường gọi là Lâm trường Sông Lô”. Công
                   - Mỗi bản đều có một khu rừng đầu           việc chủ yếu của kiểm lâm thời kỳ này là
               nguồn, đó là nơi thần rừng trú ngụ nên rất      bảo vệ rừng, cấp giấy phép khai thác, kiểm
               thiêng, mọi người không được hái măng,          tra bọn cai thầu khai thác các lô rừng, đánh
   659   660   661   662   663   664   665   666   667   668   669