Page 665 - DIA CHI TUYEN QUANG_PHAN DAU
P. 665
Phêìn thûá tû: KINH TÏË - XAÄ HÖÅI 665
thuế lâm sản, cấp giấy phép vận chuyển (Phú Thọ). Đồng bào các dân tộc còn khai
lâm sản. Chính quyền thực dân Pháp còn thác các sản phẩm từ rừng như: vầu, tre,
dựa vào các thổ ty để nắm tình hình khai nứa, trúc non, vỏ cây dướng, nhựa cây
thác các lô rừng, huy động đủ lao dịch khi vạt để làm giấy bản, phục vụ nhu cầu của
chúng cần. nhân dân trong vùng. Các loại tre, nứa,
Ngay sau khi chiếm đóng Tuyên song mây,... còn là nguyên liệu để làm đồ
Quang, thực dân Pháp nhận thấy hai nguồn gia dụng.
lợi to lớn của tỉnh là khoáng sản (kẽm, Đây cũng là thời kỳ dân số Tuyên
than...) và lâm sản. Do đó, chúng đã tích Quang tăng khá nhanh. Theo số liệu thống
cực khai thác hai nguồn lợi nói trên: hằng kê Việt Nam thế kỷ XX thì dân số Tuyên
năm khai thác hàng chục nghìn tấn kẽm, Quang vào năm 1921 là 40.000 người, năm
than (năm 1929, thực dân Pháp khai thác 1931 tăng lên 51.000 người, năm 1936 tăng
được 26.271 tấn than), hàng chục nghìn m lên 65.000 người, năm 1943 tăng lên 84.000
3
gỗ các loại. Ngoài 76.000 ha rừng trực tiếp người. Dân số tăng nhanh, trong khi thành
quản lý, mỗi năm rừng “tự do” còn cung phần cư dân chủ yếu là đồng bào dân tộc
cấp cho chúng từ 80.000 - 100.000 khúc gỗ thiểu số có truyền thống du canh, du cư,
các loại. Theo “Báo cáo tình hình kinh tế, đốt nương làm rẫy. Vì vậy, thực dân Pháp
chính trị của tỉnh Tuyên Quang năm 1911”, đã quy định ra những vùng rừng được
tổng số tiền thu được từ việc bán lâm sản là phép làm nương rẫy (đây thường là những
353.000 đồng (trong đó riêng tiền thu được khu rừng mà chúng không thể khai thác
từ gỗ là 179.000 đồng, từ tre là 71.000 đồng, được lâm sản), đồng thời đề ra phương
từ củ nâu là 90.000 đồng). Số thuế định kỳ thức luân canh và những quy định cụ thể
mà chúng thu được từ lâm sản là 43.600 như: cho phép canh tác 3 năm sau khi đốt
đồng (trong đó số thuế thu được từ gỗ là nương rẫy và bỏ hóa trong vòng 10 - 15
24.850 đồng, từ tre là 6.700 đồng, từ củ nâu năm mới được quay lại làm rẫy ở vị trí
là 9.000 đồng). Cũng trong năm 1911, chỉ cũ. Tuy nhiên, những quy định này gần
tính riêng mỏ kẽm Tràng Đà đã tiêu thụ như không có hiệu lực vì chúng không thể
hết 700 ste củi gỗ để đốt. Đến năm 1912, kiểm soát được. Vì thế, rừng ngày càng bị
tổng lượng khai thác là 18.560 m gỗ các giảm diện tích và chất lượng.
3
loại và 38.250 m tre các loại. Theo “Báo cáo Mặc dù nhà nước thực dân có ban
3
tình hình kinh tế, chính trị của tỉnh Tuyên hành những quy định về các biện pháp lâm
Quang năm 1912”, tổng số thuế thu được sinh đảm bảo tái sinh rừng sau khi khai
là 70.645 đồng Đông Dương. thác, nhưng trên thực tế thì hoạt động này
Phần lớn lượng gỗ khai thác được tại không thể kiểm soát được, nên về cơ bản
Tuyên Quang được vận chuyển về xuôi rừng thường bị suy giảm về chất lượng.
theo đường sông Lô về Việt Trì (Phú Thọ) Cùng với việc khai thác rừng, người Pháp
và Hà Nội để bán. Tại thị trường lâm sản đã bước đầu trồng rừng thử nghiệm. Do
Việt Trì năm 1944, lượng lâm sản Tuyên đó, đã hình thành được một số khu rừng
Quang chiếm tới 60%. Thời kỳ này, ngoài trồng tập trung như trồng cây tếch với
khai thác gỗ, nhân dân còn khai thác củi diện tích khoảng vài chục ha ở Yên Sơn,
và đốt than để dùng; khai thác tre, nứa Nà Hang, Chiêm Hóa.
để làm nguyên liệu cho nhà máy bột giấy Để phục vụ cho hoạt động quản lý và
của Công ty Giấy Đông Dương ở Việt Trì sản xuất nông - lâm nghiệp tại Tuyên Quang