Page 633 - DIA CHI TUYEN QUANG_PHAN DAU
P. 633
Phêìn thûá tû: KINH TÏË - XAÄ HÖÅI 633
dựng các trạm bơm điện công suất nhỏ. quan trọng: Nông nghiệp từ chỗ sản xuất
Hệ thống phai, đập, mương máng được theo lối độc canh, kỹ thuật lạc hậu, năng
tu bổ và xây dựng mới. Nhờ vậy việc tưới suất thấp đã bắt đầu đi vào phát triển toàn
tiêu lúa đảm bảo hơn. diện. Tổng diện tích gieo trồng tăng. Nông
- Kết quả sản xuất. nghiệp đã đáp ứng phần lớn nhu cầu
Kết thúc kế hoạch ba năm (1958-1960), lương thực, thực phẩm, cung cấp nguyên
Tuyên Quang thu được những thắng lợi vật liệu cho công nghiệp, thủ công nghiệp
quan trọng trong phát triển kinh tế, xã và xuất khẩu. Giá trị tổng sản lượng nông
hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần nghiệp năm 1965 tăng trên 18% so với
của nhân dân. Năm 1960 so với năm 1957, năm 1961. Diện tích cây lương thực tăng
giá trị tổng sản lượng nông nghiệp tăng 25,76%; chăn nuôi cũng có chuyển biến
hơn 26,9%; trong ba năm, sản xuất 189.824 tốt, có 55.620 con trâu, 90.976 con lợn; diện
tấn lương thực. Sản lượng thóc hằng năm tích nuôi thả cá có 1.464 ha.
đều tăng: năm 1958 đạt 44.498 tấn, năm Trong chiến tranh, phụ nữ các dân tộc
1959 đạt 51.660 tấn, năm 1960 đạt 54.032 là lực lượng lao động chủ yếu và đóng vai
tấn. Diện tích lúa hai vụ được mở rộng, trò hết sức quan trọng trong nông nghiệp,
năng suất lúa tăng từ 19,16 tạ/ha lên 24,33 trên 80% lao động trên đồng ruộng là phụ
tạ/ha. Thu nhập lương thực bình quân nữ. Chị em tích cực áp dụng các tiến bộ
đầu người tăng từ 383 kg (năm 1957) lên kỹ thuật vào sản xuất. Tới năm 1968, 40%
445 kg (năm 1960). Tới năm 1960, tỉnh đã diện tích lúa được cấy thẳng hàng; nhiều
có 52.864 con trâu. xã như: Ỷ La, Nông Tiến, Hưng Thành,
Để mở rộng diện tích trồng trọt, khai Tam Đa, Sầm Dương, đạt 100% diện tích
thác tiềm năng của vùng núi, năm 1963 được cấy thẳng hàng.
Tuyên Quang cùng các tỉnh bạn miền Sản xuất nông nghiệp liên tục bị thiên
xuôi đã đưa nông dân lên khai hoang, mở tai tàn phá. Năm 1966, khi lúa đông - xuân
rộng diện tích. Đến năm 1964 đã có 15.000 trổ bông thì bị hạn nặng; vụ mùa, hơn 500
người lên khai hoang, hình thành 77 hợp ha lúa bị bệnh vàng lụi, 3.000 ha lúa bị hạn
tác xã và 14 đội sản xuất xen ghép với các nghiêm trọng lúc trổ bông. Năm 1968, vụ
hợp tác xã của địa phương, khai hoang đông - xuân bị mưa, rét kéo dài làm chết
được 2.193 ha ruộng đất. Đồng bào miền cả lúa màu và trâu, bò; trong vụ mùa, hơn
xuôi lên khai hoang đã tạo nên những khu 400 tấn mạ giống bị hạn phải gieo lại, hàng
dân cư mới, cho phép khai thác tiềm năng nghìn ha lúa bị ngập, sâu bệnh xảy ra trên
sản xuất nông nghiệp để xây dựng kinh tế diện rộng.
địa phương; đồng thời tác động tích cực Năm 1972 là năm được mùa cao nhất,
đến phong trào cải tiến kỹ thuật, thay đổi năng suất lúa bình quân đạt 21,34 tạ/ha,
tập quán canh tác, tạo sự giao lưu văn hoá tổng sản lượng lương thực (quy thóc) đạt
rộng rãi giữa các vùng, làm chuyển biến 85.305,8 tấn. Các loại cây thực phẩm đều
mạnh mẽ đời sống văn hoá, tinh thần của xấp xỉ đạt mức kế hoạch, cây công nghiệp
nhân dân; ngành nghề mới được đưa vào có chuyển biến tốt. Chăn nuôi được đưa
nhanh hơn, mạnh hơn. dần lên thành ngành sản xuất chính. Tỉnh
Kết thúc kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, đã xây dựng trại lợn giống để cải tạo giống
Tuyên Quang đạt được nhiều thành tựu lợn đang nuôi.