Page 629 - DIA CHI TUYEN QUANG_PHAN DAU
P. 629
Phêìn thûá tû: KINH TÏË - XAÄ HÖÅI 629
1952, xảy ra hai ổ dịch cũng kịp thời được bệnh, thiệt hại ước khoảng 4.000 tấn. Các
dập tắt. Đến giữa năm 1952, toàn tỉnh có huyện Sơn Dương, Nà Hang bị thiệt hại
25.574 con trâu, 1.537 con bò, 38.283 con nặng nhất, mất trên 23% sản lượng.
lợn; ngoài số trâu địa phương dành để Đã khai hoang, phục hoá 671 mẫu
canh tác, lấy sức kéo và giết thịt, tỉnh còn ruộng, gieo cấy 64.700 mẫu lúa; chăn nuôi
cung cấp cho vùng trung du một lượng cũng được phục hồi và phát triển. Ở các
khá lớn. xã Trung Môn (Yên Sơn), Bằng Cốc (Hàm
Yên), Hào Phú (Sơn Dương)... mỗi gia
4. Thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, đình có từ 2 đến 3 con trâu.
cứu nước (1954-1975) - Tiếp tục xây dựng quan hệ sản xuất.
1- giai đoạn từ tháng 5-1954 đến trước Phát triển phong trào tổ đổi công, từ
năm 1960 đổi công từng vụ, từng việc tới đổi công
- Khôi phục sản xuất sau chiến tranh. thường xuyên; tiến tới con đường làm ăn
Đây là thời gian thực hiện cải cách “hợp tác, tương trợ”. Tới vụ chiêm xuân
ruộng đất trong nông nghiệp, thực hiện 1956-1957, toàn tỉnh có 21.457 hộ nông
khẩu hiệu “Người cày có ruộng”, nông dân thì đã có 17.627 hộ tham gia 3.048
dân được chia đất, tự sản xuất theo kiểu tổ đổi công, trong đó có 547 tổ đổi công
tự túc, tự cấp. Do chiến tranh đã để lại hậu thường xuyên.
quả nghiêm trọng, ruộng đất bị bỏ hoang Bắt đầu từ năm 1957, phong trào vần
hoá, đồng ruộng xác xơ, nông dân thiếu công, đổi công diễn ra trên khắp miền Bắc
lương thực, sức kéo trâu bò cùng với công trong đó có Tuyên Quang. Cũng trong
cụ lao động thiếu trầm trọng, kỹ thuật thời gian này, Tuyên Quang thực hiện thí
canh tác lạc hậu, sản xuất manh mún nên điểm, rút kinh nghiệm để phát triển hợp
năng suất cây trồng thấp. Mặc dù được tác xã sau này; tỉnh chỉ đạo các huyện xây
chia ruộng đất nhưng nhiều người vẫn dựng hợp tác xã nông nghiệp bậc thấp.
trong tình trạng đói khổ. Năm 1958, tỉnh đã có hàng trăm hợp tác
Sau ngày giải phóng, Tỉnh uỷ xác định xã nông nghiệp với hàng nghìn hộ xã viên.
nhiệm vụ quan trọng, lâu dài là: “Ra sức Một số giống lúa mới được đưa vào sản
phục hồi kinh tế, tài chính, trọng tâm là xuất cùng với việc áp dụng kỹ thuật canh
phục hồi nông nghiệp, chủ chốt là sản tác mới nên năng suất cây trồng tăng lên
xuất lương thực, hàn gắn vết thương chiến nhiều so với trước.
tranh, đảm bảo cung cấp nhu cầu quốc gia, Năm 1958, Tuyên Quang bước đầu
dần dần nâng cao mức sống nhân dân”. cải tạo nền kinh tế nông nghiệp theo con
Nhân dân tích cực khai hoang, phục đường xã hội chủ nghĩa. Cuối năm đó,
hồi và phát triển sản xuất nông nghiệp. vùng nông thôn có 160 xã với 20.034 hộ
Nhà nước trợ giúp vốn để nhân dân mua nông dân đã xây dựng được 3.254 tổ đổi
sắm giống, nông cụ. Vụ đông - xuân 1954- công gồm 15.844 hộ, trong đó có 524 tổ đổi
1955, toàn tỉnh cấy được 15.621 mẫu lúa, công thường xuyên gồm 3.239 hộ.
trồng được 14.919 mẫu hoa màu; sản xuất Đầu vụ mùa năm 1958, Hợp tác xã
lương thực quy thóc đạt 13.608 tấn. Đàm thuộc xã Tứ Quận, huyện Yên Sơn là
Vụ mùa năm 1955, bị hạn hán, sâu bệnh hợp tác xã sản xuất nông nghiệp đầu tiên
nặng. Trong 106 xã đã có 8.763 mẫu (chiếm của tỉnh được thành lập. Cuối năm 1958,
13% tổng diện tích gieo cấy) bị hạn, lụt, sâu toàn tỉnh có 9 hợp tác xã nông nghiệp.