Page 626 - DIA CHI TUYEN QUANG_PHAN DAU
P. 626

626     ĐỊA CHÍ TUYÊN QUANG



               phiên.  Cây  trồng  chủ  yếu  là  lúa  nương,   tên chủ phát cho người làm thuê 100 kg
               ngô, sắn.                                       thóc  giống,  cuối  vụ,  chúng  bắt  nộp  50
                   Người  dân  ở  đây  cũng  đã  dùng  cọn     phương (tương đương 1 tấn). Địa chủ Lý
               nước,  gàu,  biết  đắp  các  phai,  đập;  đào   Ân ở Yên Bình cho thuê trâu với mức 300
               mương để lấy nước tưới cho cây trồng.           kg thóc/con/năm.
                   Tuy  nhiên,  vùng  núi  cao  của  Tuyên         Các chủ đồn điền người Việt phần lớn

               Quang thường hay bị gió lốc mạnh, lũ to,        ở dưới xuôi lên, xuất thân từ nông dân; họ
               sương  muối  và  chịu  ảnh  hưởng  của  gió     tậu ruộng, thuê tá điền, dần dần thành địa
               mùa  đông  bắc;  vùng  dưới  thấp  thường       chủ. Một số ít địa chủ xuất thân từ thương
               hay bị lụt vào mùa mưa nên sản xuất nông        nhân hoặc quan chức, tay sai của Pháp; họ
               nghiệp bị thiệt hại nhiều.                      bỏ tiền và dựa vào thế lực thực dân để lập
                                                               đồn điền, thuê tá điền để sản xuất.
                   2. Thời kỳ pháp thuộc (1884-1945)               Những chính sách bóc lột hà khắc của
                   Nền  nông  nghiệp,  cơ  bản  vẫn  là  tự    thực dân, phong kiến đã làm cho đời sống
               cấp, tự túc, chủ yếu là sản xuất các loại       của nông dân Tuyên Quang vô cùng khổ

               cây lương thực như lúa, ngô, sắn, khoai         cực, nạn đói xảy ra liên miên, cùng với tập
               lang... Diện tích trồng trọt chủ yếu ở các      quán sản xuất của một số dân tộc du canh,
               thung lũng, rải rác ở các sườn đồi có độ        du cư, sinh sống ở vùng hẻo lánh khiến đời
               dốc thấp. Trước năm 1930, sản lượng lúa         sống của họ càng thêm khốn đốn. Nhiều
               của Tuyên Quang hằng năm đạt từ 4.000-          nơi, họ bị thổ ty áp bức, bóc lột theo kiểu
               6.000 tấn, trâu bò xuất ra ngoài tỉnh năm       lãnh chúa phong kiến hoặc theo kiểu nô lệ.

               cao nhất là 3.000 con. Ngoài chăn nuôi và
               trồng trọt, đồng bào còn làm nhiều nghề             3. Thời kỳ kháng chiến chống thực
               khác  như  khai  thác,  chế  biến  nông,  lâm   dân pháp (1945-1954)
               sản và dược liệu...                                 1- Tăng gia sản xuất chống nạn đói
                   Đất  trồng  trọt  ở  Tuyên  Quang  vốn          Sau Cách mạng Tháng Tám, kinh tế -
               đã ít mà còn bị thực dân Pháp và tay sai        xã hội của Tuyên Quang hết sức khó khăn:
               chiếm hầu hết ruộng đất tốt, lập ra hàng        nạn  đói,  nạn  dốt  rất  phổ  biến  và  trầm
               chục  đồn  điền  của  chủ  Tây,  chủ  Việt  và   trọng. Tỉnh tập trung lãnh đạo nhân dân

               các cố đạo để bóc lột nông dân. Riêng các       tăng cường khối đoàn kết dân tộc, động
               đồn điền của người Pháp như Roayđơba,           viên  nhân  dân  tích  cực  sản  xuất,  chống
               Raphanh,  Đơmôngpada  Anbe,  Rêmơry,            nạn đói và đã xác định: biện pháp lâu dài,
               Rivie, Đắclachiê..., đã chiếm tới 17.000 ha.    cơ bản để xoá bỏ nạn đói là phải tổ chức,
               Đời  sống  dân  nghèo  càng  trở  nên  quẫn     động viên nhân dân thực hiện khẩu hiệu
               bách khi đè nặng lên đầu họ là hàng loạt        “Tấc  đất,  tấc  vàng”,  đẩy  mạnh  sản  xuất,
               thứ thuế bất công, chế độ phu phen, tạp         làm thuỷ lợi, mở rộng diện tích lúa và hoa

               dịch  nặng  nề  và  nạn  cho  vay  nặng  lãi.   màu, đồng thời trợ giúp tài chính để đồng
               Ngoài thuế đinh, thuế điền, thuế trâu bò,       bào tăng gia sản xuất.
               thuế rượu, còn nhiều thứ thuế vô lý khác.           Tập trung sức người, sức của cho cuộc
               Người  dân  phải  nộp  lương  thực,  thực       kháng chiến chống thực dân Pháp, người
               phẩm cho bọn quan lại, cường hào ở địa          dân Tuyên Quang đã tự nguyện góp gạo
               phương. Trong các đồn điền, người tá điền       để nuôi quân, vừa kháng chiến, vừa sản
               cũng bị bóc lột nặng nề. Ở đồn điền Anbe,       xuất. Từ năm 1946-1947, sản xuất mới chỉ
   621   622   623   624   625   626   627   628   629   630   631