Page 625 - DIA CHI TUYEN QUANG_PHAN DAU
P. 625

Chương I
                                                       Chương II

                                              NÔNG NGHIỆP
                             DÂN SỐ VÀ PHÂN BỐ DÂN CƯ





               I- NÔNG NGHIỆP TUYÊN QUaNG QUa CÁC                  1. Thời kỳ phong kiến (trước 1884)
               THỜI KỲ                                             Nền nông nghiệp chủ yếu phụ thuộc

                   Đất nông nghiệp ở Tuyên Quang phần          vào thiên nhiên, lấy việc khai thác tự nhiên
               lớn là đất đồi núi, xen lẫn với các thung       làm  chính.  Tuỳ  thuộc  vào  tập  quán  sinh

               lũng  là  những  ruộng  bậc  thang,  một  số    sống của mỗi dân tộc mà con người tiến
               đồng lúa nhỏ. Vùng cao phía bắc bao gồm         hành sản xuất nông nghiệp theo phương
               các huyện Lâm Bình, Nà Hang, một số xã          thức khác nhau. Phần lớn đồng bào dân
               huyện Chiêm Hoá, Hàm Yên và Yên Sơn.            tộc thiểu số ở Tuyên Quang lấy việc trồng
               Dân cư của vùng này chủ yếu là đồng bào         lúa nương và cây lương thực khác trên đất

               dân  tộc  thiểu  số,  kinh  tế  chủ  lực  là  các   dốc là nguồn kinh tế chủ lực, ngoài ra họ
               nguồn lợi từ rừng, trồng cây lương thực,        cũng khai thác vùng đất bằng phẳng dưới
               cây ăn quả và chăn nuôi đại gia súc. Phía       thung lũng để trồng lúa nước. Cây lương
               nam là vùng đồi núi thấp và các soi bãi         thực chính bao gồm: lúa, ngô, sắn, khoai
               rộng,  màu  mỡ  cùng  các  thung  lũng  lớn     lang. Ngoài ra, cũng trồng một ít cây ăn
               như: thành phố Tuyên Quang, huyện Sơn           quả như mận, na, hồng,... xung quanh nhà.

               Dương, Yên Sơn... Đây là vùng đất giàu          Ngành chăn nuôi chủ yếu là nuôi trâu để
               tiềm năng kinh tế của tỉnh; vùng này chủ        lấy sức kéo; chăn nuôi lợn, gà để tự cung
               yếu trồng cây lương thực, cây công nghiệp,      tự cấp trong gia đình.
               cây  ăn  quả  và  chăn  nuôi  gia  súc.  Nông       Xưa kia, việc canh tác phụ thuộc hoàn

               nghiệp với hai ngành trồng trọt và chăn         toàn vào tự nhiên. Những năm mưa thuận,
               nuôi với sản phẩm đa dạng về chủng loại         gió hoà thì có đủ lương thực. Gặp năm hạn
               mà điển hình là sản xuất lúa và chăn nuôi       hán thì thường bị mất mùa, thiếu lương
               đại gia súc là đặc trưng cơ bản của nền sản     thực;  người  dân  phải  tìm  thêm  các  loại
               xuất tiểu nông đã hình thành và phát triển      cây, củ trong rừng để ăn. Chỉ gieo trồng
               qua bao đời nay. Qua quá trình sản xuất         một vụ trong năm, thường là mùa mưa, từ

               nông nghiệp, đã có những phát triển vượt        tháng 5 đến tháng 10.
               bậc về trồng trọt, chăn nuôi; sản phẩm đã           Một số dân tộc vùng cao trước đây có
               đáp ứng phần lớn nhu cầu về lương thực          tập quán du canh, du cư. Thường chỉ canh
               của người dân, một số sản phẩm của Tuyên        tác khoảng từ 3 đến 4 năm, sau đó tìm nơi
               Quang đã trở nên nổi tiếng như cam Hàm          mới để phát nương làm rẫy, phương thức

               Yên, vịt Minh Hương,...                         canh tác này được gọi là làm nương luân
   620   621   622   623   624   625   626   627   628   629   630