Page 362 - DIA CHI TUYEN QUANG_PHAN DAU
P. 362

362     ĐỊA CHÍ TUYÊN QUANG













                                                     Chương III


                       TUYÊN QUANG THỜI PHONG KIẾN

                                     (Từ thế kỷ X đến năm 1884)





               I. TUYÊN QUANG TỪ THẾ KỶ X - XV                 Quan võ gồm Đô thống, Nguyên soái, Tổng

                                                               quản,  Khu  mật  sứ,  Tả  hữu  kim  ngô,  Thượng
                   1. Về chính trị, hành chính
                                                               tướng, Đại tướng, Đô tướng, v.v..
                   Nhà nước quân chủ Việt Nam được xác             Bộ máy của chính quyền trung ương
               lập từ thế kỷ X, sau chiến thắng của Ngô        được  bổ  sung,  hoàn  thiện  dần  các  chức
               Quyền trên sông Bạch Đằng. Nhưng trong          quan  vào  các  năm  1028  (đời  Vua  Thái
               buổi  đầu  nhà  nước  quân  chủ  chưa  được     Tông) và năm 1080 (đời Vua Nhân Tông)...
               hoàn  thiện  về  tổ  chức  thiết  chế.  Phải  đợi   Hàng ngũ quan lại của triều đình ở các

               đến những năm đầu của thế kỷ XI, với sự         địa phương: quan văn ở các lộ, phủ, châu là
               ra đời của vương triều Lý, thiết chế của nhà    Tri phủ, Quân phủ, Tri châu. Quan võ ở các
               nước quân chủ mới được dần hoàn thiện.          lộ, trấn, trại là Quan binh và Trấn thủ. Ở bên
                   Lý Công Uẩn lên ngôi vua ở Hoa Lư           ngoài các lộ, trấn, trại đều đặt các quan và
               mở đầu cho vương triều Lý (1010 - 1225),        binh trấn giữ.

               tức  Lý  Thái  Tổ.  Một  trong  những  việc         Trước một sự thật là chính quyền ở các
               làm có ý nghĩa đầu tiên của vị vua khai         châu miền núi thời Lý vẫn nằm trong tay
               sáng triều Lý là rời đô từ Hoa Lư ra Đại        tầng lớp thống trị ở địa phương (như các
               La lấy tên là thành Thăng Long. Việc làm        tù trưởng ở các động). Các vua Lý đã dùng
               này có ý nghĩa rất lớn, phản ánh yêu cầu        chính sách nhu viễn để ràng buộc đối với
               phát triển mới của nhà nước quân chủ tập        các địa phương xa (đặc biệt là ở miền biên

               trung thời Lý.                                  viễn), nơi mà bộ máy chính quyền trung
                   Bộ máy nhà nước thời Lý là một hệ           ương chưa thực sự kiểm soát được. Chính
               thống  chính  quyền  từ  trung  ương  đến       sách nhu viễn của triều đình nhà Lý có hai
               địa phương với quyền lực tuyệt đối nằm          mặt: mua chuộc tầng lớp thống trị ở miền
               trong  tay  triều  đình  đứng  đầu  là  vua.    núi và khi cần cũng có thể trấn áp bằng

               Theo  Phan  Huy  Chú,  quan  chế  đời  Lý       quân sự. Triều đình trung ương cho phép
               đại lược có 9 bậc. Bậc Đại thần đứng đầu        các  tù  trưởng  địa  phương  thực  sự  quản
               các  hàng  văn  võ  gồm  có:  Tam  thái  (Thái   lý vùng đất của mình, cha truyền con nối
               sư, Thái bảo, Thái Phó); Tam thiếu (Thiếu sư,   nhưng trên nguyên tắc phải thần phục và
               Thiếu bảo, Thiếu phó).                          hằng  năm  phải  nộp  cống  phú.  Các  châu
                   Quan văn thì có Thượng thư, Tả Tham tri,    thuộc địa bàn của Tuyên Quang cũng nằm

               Tả hữu gián nghị và Trung thư thị lang, v.v..   trong trường hợp như vậy. Ở châu Vị Long
   357   358   359   360   361   362   363   364   365   366   367