Page 339 - DIA CHI TUYEN QUANG_PHAN DAU
P. 339

339
                                                                          Phêìn thûá ba: LÕCH SÛÃ





























                           Công cụ đồ đá mới, tìm thấy năm 1956 ở xã An Khang (huyện Yên Sơn),
                                               có niên đại khoảng 6.000 năm



               biển Cyprea arabica trong cách thức khâm        công cụ hình bầu dục được chế tác từ đá
               liệm của người Phia Vài cũng cho thấy có        cuội sông, suối. Trong lớp văn hóa này còn
               mối giao lưu, trao đổi giữa cư dân ở đây        tìm thấy vỏ ốc biển, dấu tích của bếp lửa
               với cư dân vùng biển. Đây là nét mới rất        và mộ táng.
               thú  vị  khi  nghiên  cứu  mối  quan  hệ  của       Có 2 bếp lửa chia đều cho mỗi lớp văn
               người Phia Vài trong bối cảnh rộng hơn.         hóa,  đó  là  những  đám  đất  cháy  màu  đỏ

                   - Di chỉ hang Phia Muồn: Thuộc thôn         hình bầu dục, kích thước trung bình 1,30m x
               Nà Lạ, xã Sơn Phú, huyện Nà Hang, tỉnh          0,80m, trên có phủ lớp tro mỏng. Xương
               Tuyên  Quang,  tọa  độ  22 25’vĩ  bắc  và       răng động vật gồm xương thú, vỏ nhuyễn
                                           0
               105 30’kinh đông, rộng hơn 100m . Bề mặt        thể, tìm thấy ở hầu khắp các lớp đào trong
                                                 2
                   0
               hang  khá  bằng  phẳng,  dốc  từ  phía  trong   hố khai quật với số lượng không nhiều. Vỏ
               lòng  hang  ra  ngoài,  tầng  văn  hóa  dày     nhuyễn  thể  gồm  loài  ốc  núi  Cyclophorus,
               0,50 - 0,60m, chia làm hai lớp: Lớp văn hóa     ốc suối Antimelania, trùng trục Lancealaria,

               1 dày không đồng đều từ 0,15 đến 0,45m,         cùng nhiều cua núi.
               có  chỗ  mỏng  chừng  0,10m.  Lớp  đất  có          Có 12 mộ táng đều thuộc thời đại Đồ
               màu xám nhạt, kết cấu bở rời, nhiều mảnh        đá, trong đó có 4 mộ còn di cốt; số còn lại,
               đá vỡ nhỏ tự nhiên, chứa vỏ nhuyễn thể,         xương cốt đã bị phân hủy, chỉ còn đồ tuỳ
               mảnh  xương  động  vật,  công  cụ  đá  ghè      táng là những công cụ bằng đá và những
               đẽo, rìu mài nhẵn và nhiều mảnh gốm vỡ,         tảng đá lớn dùng để đánh dấu mộ. Qua

               dấu vết của bếp lửa. Lớp văn hóa 2 dày          nghiên cứu ban đầu cho thấy, có ít nhất 2
               không đồng đều từ 0,20 đến 0,35m là loại        loại táng thức. Táng thức thứ nhất là chôn
               đất á sét, màu nâu sẫm, kết cấu cứng chắc,      nằm  co,  bó  gối,  đồ  tuỳ  táng  chôn  theo
               chứa nhiều xương răng động vật là những         là  công  cụ  ghè  đẽo  và  mảnh  tước.  Phần
               loại thú nhỏ cùng vỏ ốc núi, ốc suối và di      bên trên mộ có xếp nhiều tảng đá lớn để
               vật đồ đá ghè đẽo. Bộ di vật đá mang đặc        đánh dấu mộ. Táng thức thứ hai là di cốt
               trưng của kỹ thuật văn hóa Hòa Bình, tiêu       được chôn trong tư thế nằm ngửa, hai tay

               biểu là những công cụ chặt hình rìu ngắn,       buông xuôi, đồ tùy táng chôn theo là một
   334   335   336   337   338   339   340   341   342   343   344