Page 336 - DIA CHI TUYEN QUANG_PHAN DAU
P. 336
336 ĐỊA CHÍ TUYÊN QUANG
vật được gia công từ những mảnh cuội bổ Vài không nhiều so với tỷ lệ công cụ; kích
có kích cỡ vừa phải và hình dạng hình học. thước mảnh tước thường hơi lớn và vừa,
Người xưa đã bổ tách đôi hòn cuội, phần hiếm mảnh tước nhỏ. Điều này càng góp
lớn những mảnh này có điểm ghè tách ở phần khẳng định kỹ thuật ghè đẽo công cụ
rìa dọc của viên cuội. Nhóm này có các ở Phia Vài khá đơn giản, bởi chỉ vài nhát
loại công cụ hình đĩa, công cụ hình bầu ghè là có thể thành một công cụ; việc tu
dục, hình bán nguyệt, hình thang. Ngoài chỉnh hình dáng và rìa lưỡi cũng ít được
một số công cụ hình bầu dục hay oval kích chú ý.
thước khá lớn có thể sử dụng với chức Trong số di vật đá ở Phia Vài, những
năng chặt; còn phần lớn đều nhỏ, mỏng vật dùng vào việc trang trí hay nghi lễ như
dùng để cắt nạo. Công cụ mảnh cuội cũng thổ hoàng khá phổ biến. Ngoài ra, còn có
là một trong những đặc trưng của di chỉ một viên cuội phiến sét đục lỗ dùng để đeo
này, vì nhóm này phân bố đồng đều ở cả làm đồ trang sức hoặc nhu cầu tín ngưỡng
lớp văn hóa sớm và muộn của di chỉ. nào đó.
Nhóm công cụ không qua chế tác Kỹ thuật chủ đạo trong chế tác công cụ
chiếm 6,38%. Loại hình công cụ của nhóm của người Phia Vài là ghè đẽo trực tiếp. Kỹ
này gồm: hòn ghè, chày nghiền, bàn thuật tu chỉnh ít phổ biến và thiếu hẳn kỹ
nghiền, bàn mài. Những hòn ghè đập thuật tách mảnh tước từ hạch đá.
thường dùng đá quartz. Chày nghiền khá Kỹ thuật ghè đẽo đặc trưng khác ở
nhiều với các hình dạng khác nhau, còn Phia Vài là ghè xung quanh, hướng tâm
bàn nghiền thì rất hiếm. Bàn mài ở Phia viên cuội (kỹ thuật Sumatralith). Thủ
Vài thường làm bằng các mảnh sa thạch pháp này đã tạo nên những loại hình công
dạng phiến, có thể khai thác ngay trong cụ Sumatralith với các dạng hình bầu dục,
các mạch đá nằm xen kẽ với đá vôi. Ở đây, hình đĩa, rìu ngắn,... ở sưu tập Phia Vài,
bàn mài thường phẳng, vết mài sơ qua, kỹ thuật Sumatralith kết hợp chặt chẽ với
nhiều khi lẫn với mặt nhẵn tự nhiên của kỹ thuật bổ cuội, và chúng tỷ lệ thuận với
đá phiến. Nhóm này phân bố chủ yếu ở nhau trong loại hình rìu ngắn.
lớp văn hóa muộn của di chỉ. Kỹ thuật chặt bẻ là một thủ pháp hữu
Nhóm mảnh đá có vết ghè và mảnh hiệu nhằm tạo ra loại hình công cụ lao
tước có 1.022 di vật, chiếm 65,81% tổng số động. Chặt bẻ là bước kỹ thuật thứ hai tiếp
hiện vật. Trong số đó, mảnh tước đầu tiên theo sau khi đã tạo ra được các công cụ có
có 130 tiêu bản, mảnh tước thế thứ có 473 rìa lưỡi, rìa dọc, công cụ 1/4 cuội, công cụ
tiêu bản. Nhóm này phân bố đồng đều ở hình bầu dục tạo công cụ rìu ngắn.
cả lớp văn hóa sớm và muộn của di chỉ. Một kỹ thuật khác khá phổ biến ở Phia
Mảnh đá có vết ghè ở Phia Vài chủ yếu là Vài là kỹ thuật ghè đẽo hạn chế ở rìa cạnh
những mảnh cuội có vết gia công nhưng của cuội, trên một mặt, theo một hướng.
chưa tạo thành rìa lưỡi hoặc những phế Với kỹ thuật này, đã tạo ra những công
vật loại bỏ của quá trình chế tác. Số lượng cụ chặt thô hoặc mũi nhọn thô. Đây là kỹ
mảnh đá có vết ghè ở Phia Vài khá nhiều, thuật khá cổ, rất phổ biến từ thời đại Đá
điều đó chứng tỏ việc chế tác công cụ đá cũ và là kỹ thuật đặc trưng trong văn hóa
ở đây diễn ra thường xuyên; sự lãng phí Sơn Vi - một văn hóa hậu kỳ Đá cũ ở nước
nguyên liệu cũng lớn, có lẽ do sẵn nguồn ta. Rất hiếm chế phẩm được ghè lưỡi từ
nguyên liệu tại chỗ. Mảnh tước ở Phia hai mặt.