Page 233 - DIA CHI TUYEN QUANG_PHAN DAU
P. 233

233
                                                               Phêìn thûá hai: DÊN CÛ - DÊN TÖÅC


                  Dân số dân tộc Mông ở Tuyên Quang            gần giống cây lạc, quả dài chừng 10cm, to
                                            (Đơn vị: người)    bằng ngón tay, thân quả vuông, có từ 5 đến
                                                               8 hạt. Khi đậu còn non có thể xào ăn cả quả,
                      Đơn vị             1      2       3      khi già bóc lấy hạt hầm với xương rất ngon.
                    hành chính      1992    1999    2009
                                                                   Đậu Hà Lan: được trồng để làm thức
                Toàn tỉnh           9.334 14.658   16.974      ăn hằng ngày. Thời vụ trồng vào tháng 10,
                Thành phố                                      tháng 11; tháng 3, tháng 4 năm sau thì thu
                Tuyên Quang         97     39          64      hoạch.  Cây  đậu  được  trồng  thành  vườn

                Huyện Yên Sơn       2.959  5.064     7.074     hoặc ở mép nương lúa, nương ngô. Đậu
                                                               Hà Lan có thể ăn được cả quả, lá và ngọn.
                Huyện Hàm Yên       1.105  1.889     2.513
                                                                   Rau cải: có giống rau ngon trở thành
                Huyện Sơn Dương 680        711        881      đặc sản, gọi là cải Mèo. Giống rau này lá
                Huyện Chiêm Hóa 1.524      1.873     1.930     rất to, ăn ngọt và lâu già; được trồng bằng

                Huyện Nà Hang       2.987  5.082     4.512     cách  gieo  thành  nương  hoặc  gieo  cạnh
                                                               nương lúa, nương ngô; gieo từ mùa đông
                                                               đến mùa xuân, sang hè vẫn còn rau ăn.
               II-  HOẠT  ĐỘNG  KINH  TẾ  VÀ  VĂN  HÓA             Các  cây  gia  vị  như  ớt,  cà  chua  thóc,
               VẬT CHẤT                                        tỏi, hành được trồng quanh nhà hoặc trên

                   1. Trồng trọt                               nương. Các loại gia vị được sấy khô, treo
                                                               lên gác bếp để ăn quanh năm.
                   Trước  kia,  người  Mông  chỉ  trồng            Cây  lanh:  không  chỉ  để  làm  nguyên
               trọt trên nương, họ cũng thâm canh trên         liệu dệt vải mà hạt còn được dùng làm thức
               nương bằng, song chủ yếu vẫn là nương           ăn, cây được dùng trong nghi lễ đám tang.
               dốc.  Do  độ  xói  mòn  cao,  nên  chỉ  vài  vụ   Mùa gieo hạt lanh vào tháng 3, tháng 4;
               là nương đã bạc màu, họ lại bỏ đi, phát         sau bốn tháng thì được thu hoạch.

               nương mới. Khi vùng đất quanh nơi cư trú            Ngày nay, người Mông đã định canh
               đã cạn kiệt, người Mông sẽ du cư, đi tìm        và bỏ dần tập quán làm nương, bên cạnh
               đất mới. Do cư trú trên vùng núi đá nên         những cây trồng truyền thống, họ đã trồng
               họ còn canh tác nương thổ canh hốc đá.          lúa nước, bước đầu áp dụng khoa học - kỹ
               Cây trồng chính là ngô, đậu tương, lanh,        thuật vào sản xuất, trồng giống ngô, lúa
               rau, đậu, bí, su su...                          mới, sắn, khoai...
                   Trước kia, cây lương thực chủ yếu là
               ngô, canh tác theo kiểu phát, đốt nương             2. Chăn nuôi
               rồi tra hạt. Ngô thu hoạch được để nguyên           Chăn  nuôi  ở  vùng  người  Mông  chủ

               bắp, phơi khô. Ngoài ngô còn có các loại        yếu là tự cung, tự cấp, số lượng ít. Ngựa
               cây trồng khác như:                             là vật nuôi truyền thống, gắn bó với người
                   Đậu  răng  ngựa  là  cây  trồng  rất  phổ   Mông trong lao động, sản xuất, sinh hoạt.
               biến, chỉ thích hợp với khí hậu lạnh. Cây       Trước  kia,  gia  đình  nào  cũng  nuôi  ngựa
               được  trồng  vào  tháng  9,  tháng  10,  thu    để làm phương tiện đi lại và vận chuyển
               hoạch vào tháng 3, tháng 4 năm sau. Cây         hàng hóa; ngoài ra, họ nuôi lợn, gà, dê...



                   1. Xem Cục Thống kê tỉnh Tuyên Quang: Số liệu Kinh tế - xã hội 1990-1993 tỉnh Tuyên Quang, Sđd.
                   2. Xem Cục Thống kê tỉnh Tuyên Quang: Niên giám thống kê tỉnh Tuyên Quang 2000, Sđd.
                   3. Xem Cục Thống kê tỉnh Tuyên Quang: Kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009 tỉnh
               Tuyên Quang, Sđd.
   228   229   230   231   232   233   234   235   236   237   238