Page 178 - DIA CHI TUYEN QUANG_PHAN DAU
P. 178
178 ĐỊA CHÍ TUYÊN QUANG
Xưa kia, các nghề thủ công chỉ được phơi khô, ngâm ủ để dùng dần. Ngoài các
coi là ngành nghề phụ trong gia đình để loại rau, củ, quả, người Tày còn khai thác
tự cung, tự cấp là chính, khi nào thừa mới các loại thảo dược quý hiếm về làm thuốc.
mang ra chợ để trao đổi lấy các sản phẩm Khai thác các loại gỗ, tre, nứa, song, mây
khác. Ngày nay, nghề dệt thổ cẩm và một phục vụ cho sinh hoạt hằng ngày và trao
số nghề mới như đan cót, làm mành, chiếu đổi lấy các sản phẩm khác.
đang phát triển trong cộng đồng người Tày Săn bắt có từ xa xưa, là nghề của đàn
ở các huyện Chiêm Hóa, Nà Hang và mang ông. Người Tày có hai hình thức săn chủ
lại nguồn thu nhập cho người dân. yếu là săn rình soi đèn vào ban đêm và
săn đuổi vào ban ngày; ngoài ra, đồng bào
4. Trao đổi, buôn bán còn sử dụng một số loại bẫy để bắt chim,
Từ xưa, các hoạt động buôn bán, trao thú. Săn đuổi có nhiều người tham gia, họ
đổi sản phẩm đã diễn ra khá nhộn nhịp thường thả chó vào các khu đồi, khu rừng
tại những khu chợ lớn như: chợ Tân Trào, định săn để lùng đuổi, một tay súng thiện
chợ Kim Xuyên huyện Sơn Dương, chợ xạ đón lõng, phục ở các điểm khe, gò xung
Rừng Lim (nay là chợ Vĩnh Lộc) huyện yếu sẵn sàng nổ súng hạ sát khi thú chạy
Chiêm Hóa, chợ Bợ huyện Hàm Yên, chợ qua. Trước kia, khi nguồn thú rừng còn
Đà Vị huyện Nà Hang... Thường các chợ phong phú thì nghề săn bắt đã góp phần
ở huyện họp theo phiên, mỗi tuần một cải thiện đáng kể cho bữa ăn hằng ngày.
lần, hoặc một tháng hai lần. Các sản phẩm Ngày nay, việc săn bắt thú rừng hầu như
phổ biến được mang ra chợ bán, trao đổi không còn. Người Tày có nhiều hình thức
thường là lương thực, thực phẩm, lâm thổ đánh bắt cá, như bằng vó, chài, lưới, đơm,
sản như nấm, mật ong, dược liệu; các sản chém, câu, xúc, ruốc..., tùy thuộc vào thời
phẩm thủ công, đồ dùng gia đình, dụng vụ, mùa cá mà có các hình thức đánh bắt
cụ sản xuất,... Đồng bào Tày đi chợ không khác nhau.
chỉ để trao đổi hàng hóa, mà còn để giao
lưu, trò chuyện. Đây là một hoạt động văn 6. Trang phục
hóa mang tính cộng đồng. 1- Trang phục nữ
Phụ nữ Tày mặc áo cánh ngắn với váy
5. Săn bắt, hái lượm hoặc áo dài năm thân với quần. Áo cánh
Đây là hoạt động diễn ra hằng ngày, bốn thân ngắn ngang hông, may theo
hoặc theo thời vụ, theo mùa. Các sản vật kiểu áo xẻ ngực, cổ tròn, chiết eo, có hai
của rừng rất phong phú và đa dạng, như túi nhỏ ở hai vạt trước. Những người trẻ
các loại rau, chim, thú, lâm sản, dược liệu. tuổi thường mặc váy dài gần mắt cá chân,
Vào mùa xuân, khoảng tháng 2, tháng người già mặc váy lửng đến đầu gối. Váy
3 âm lịch, bà con thường tìm hái các loại gồm có ba phần: cạp, thân và gấu. Phần
rau rừng, như rau dớn, rau ngót rừng, rau cạp rộng khoảng 3 cm, làm bằng các loại
má và các loại măng vầu; đến cuối tháng vải khác màu, thường là vải hoa, may theo
4 lấy măng tre, tháng 6, tháng 8 lấy măng hình thức luồn chun hoặc dây rút.
mai, măng nứa, măng hóp. Đào củ mài Áo dài may theo kiểu năm thân, cài
vào tháng 3, tháng 4 âm lịch; củ đao, củ cúc ở nách, dài đến lưng bắp chân, có
nâu vào tháng 6, tháng 7 âm lịch... Các chiết eo gần giống áo dài của người Kinh;
sản phẩm khai thác về được ăn ngay hoặc quần lá tọa, ống rộng, dài đến mắt cá chân.