Page 177 - DIA CHI TUYEN QUANG_PHAN DAU
P. 177
177
Phêìn thûá hai: DÊN CÛ - DÊN TÖÅC
thóc, lúa, ngô... Dậu được đan theo kiểu vùng sâu, vùng xa, bà con vẫn giữ được
nong đôi, các hàng nan ken khít; đáy vuông, nghề đan lát và tập quán sử dụng các sản
có hai thanh tre dày, cứng bắt chéo để chịu phẩm truyền thống.
lực; thân tròn, cao khoảng 35-40 cm, đường 2- Nghề mộc
kính miệng khoảng 40 cm, mỗi chiếc dậu Các sản phẩm của nghề mộc đã đạt
có hai quai đối xứng, quai ngắn chỉ vừa đến trình độ cao trong nghệ thuật kiến trúc
đủ để xỏ đòn gánh; các góc đáy và miệng, và điêu khắc, biểu hiện qua kỹ thuật dựng
quai dậu được ken bằng sợi mây chắc nhà và các hoa văn trang trí trong ngôi nhà
chắn và đẹp mắt. Dậu đan xong thường sàn truyền thống; công cụ lao động và các
được để trên gác bếp, đến khi có màu nâu đồ sinh hoạt trong gia đình như bàn, ghế,
sẫm mới lấy xuống dùng. giường, tủ, chõ đồ xôi, bao dao..., đặc biệt
Người ta dùng nứa tép (loại nứa nhỏ, là cọn nước và cối giã gạo nước. Người
mỏng) để nguyên cây, băm dập và đan Tày xay thóc bằng cối như người Kinh, sau
nong đôi, các hàng nan ken khít thành tấm đó dùng cối giã bằng tay, bằng chân, hoặc
“đệm” lớn bằng 4, 5 chiếc chiếu dùng để lợi dụng sức nước để giã gạo. Cối giã bằng
phơi thóc, lúa, ngô... chân gồm một cối đá chôn xuống đất, chày
“Níp” có hình dáng giống như dậu, ngắn được gắn vuông góc với cần gỗ dài
khoảng hai mét, đầu kia của cần gỗ gắn
nhưng nhỏ, xinh, không có quai, có thể có vào một khung gỗ chắc chắn theo kiểu bập
nắp đậy (cũng đan bằng nan giang), dùng bênh. Người ta cho thóc đã xay vào cối rồi
đựng kim chỉ, đồ ăn trầu, vật dụng nhỏ đứng lên khung gỗ, dùng chân nhún cần
trong nhà. “ Sỏong” đan bằng nan tre, nứa, gỗ xuống để nâng chày lên, khi bỏ chân ra,
thưa theo kiểu mắt cáo, có quai đeo lên vai, cần gỗ trở về vị trí cũ thì chày rơi xuống
dùng để đựng, rửa rau, củ, quả dưới suối cối, có thể một người hoặc hai người cùng
như chiếc rổ của người Kinh. Đặc biệt, xưa giã. Cối giã gạo nước đặt ở bờ suối hoặc
kia người khéo tay còn đan cả những chiếc nơi có nước lần (nước suối, khe được dẫn
rương đựng quần áo. Rương cũng được về bằng ống tre, nứa), cũng được thiết kế
đan tương tự như dậu nhưng hình chữ như cối giã gạo bằng chân, song cần gỗ
nhật, cầu kỳ hơn, có nhiều hoa văn tinh chỗ đặt chân được khoét thành máng để
xảo tạo nên bằng kỹ thuật đan và nhuộm đón nước đổ từ cọn hoặc máng lần chảy
nan, pha màu. Nắp rương cũng được đan vào. Khi máng đầy nước sẽ có sức nặng để
bằng nan giang, dày khít, trùm lên miệng tự nhún xuống thay cho sức người, máng
rương, có cả móc để khóa. nghiêng sẽ khiến nước chảy hết, nhẹ đi và
Chiếc “và” là vật dụng không thể thiếu cần gỗ bật trở lại vị trí cũ, tiếp tục hứng
của người phụ nữ Tày, đó là một chiếc túi nước. Thông thường, buổi chiều tối cho
có quai khoác bên vai được đan bằng vỏ thóc đã xay vào cối, thì đến sáng hôm sau
dây sắn rừng theo kiểu đan lưới, dùng để gạo đã trắng, chỉ việc lấy về dần, sàng.
đựng đồ khi đi chợ, đi chơi, đi làm... Cùng với người Dao, người Tày ở
Người Tày còn đan quạt, đan nón đội Tuyên Quang giỏi nghề nấu rượu. Ngoài
bằng nan giang, lá cọ; đan chài, lưới, các rượu ngô Nà Hang nổi tiếng, rượu gạo,
loại giỏ để đựng cá... rượu sắn, rượu đao... ủ bằng men lá và
Ngày nay, ở thành thị, hầu hết người chưng cất theo kiểu truyền thống còn có
Tày đã sử dụng đồ dùng gia đình như rượu hoẵng, rượu cẩm... Người Tày cũng
người Kinh, song ở khu vực nông thôn, trồng mía, nấu đường mật.