Page 176 - DIA CHI TUYEN QUANG_PHAN DAU
P. 176

176     ĐỊA CHÍ TUYÊN QUANG



               nương  bằng  trồng  lúa,  nương  dốc  trồng     đình ở lưu vực sông Lô, sông Gâm. Ngoài
               các loại cây màu. Sau tết Nguyên đán là         nuôi cá ở ao, người Tày còn nuôi cá ruộng
               thời gian phát nương, đến khoảng tháng          theo mùa. Thời gian ươm giống từ tháng 2,
               2 âm lịch thì tra ngô, lạc, đỗ, đặt hom sắn.    tháng 3 âm lịch, đến tháng 5, tháng 6, sau
               Ngô được trồng hai vụ luân canh và trồng        khi cấy xong thì tháo nước vào ruộng rồi
               xen  canh  với  cây  đậu  tương,  lạc,  vừng    vớt cá trong ao ra nuôi tại ruộng, đến cuối

               cùng các loại rau, củ, quả, như bí đỏ, bí       tháng 8 đầu tháng 9 bắt đầu thu hoạch cá.
               đao,  dưa...  Trước  kia,  người  Tày  trồng
               giống ngô địa phương, nay trồng ngô lai             3. Nghề thủ công truyền thống
               cho năng suất cao. Những khu đất đồi, núi           1- Nghề trồng bông, dệt vải
               có độ dốc vừa phải, người ta trồng các loại         Trước đây, nghề trồng bông, dệt vải,
               cây ăn quả như: quýt, hồng, đu đủ; cây lấy      dệt  thổ  cẩm  rất  phổ  biến  trong  người
               gỗ; cây quế, sả...                              Tày, nhà nào cũng có nương trồng bông
                                                               và dụng cụ dệt vải. Bông được trồng trên
                   2. Chăn nuôi                                nương,  thu  hoạch  về  cán  bỏ  hạt,  se  sợi

                   Người Tày chăn nuôi trâu, ngựa, lợn,        rồi dệt thành vải, vải được nhuộm chàm
               gà, vịt, ngỗng, cá... cung cấp sức kéo, phân    hoặc nâu trước khi may thành quần áo,
               bón và thực phẩm phục vụ sinh hoạt hằng         chăn màn. Các thiếu nữ Tày 13-14 tuổi đã
               ngày.  Trước  kia,  đồng  bào  có  tập  quán    bắt đầu có mảnh nương riêng của mình
               thả rông gia súc, gia cầm. Trâu được nuôi       để trồng bông, được mẹ dạy se sợi, dệt

               thành từng đàn, mỗi nhà có hàng chục con        vải, may quần áo, chăn màn dùng hằng
               thả trong rừng, khi cần, chủ vào rừng tìm       ngày và chuẩn bị để đem theo lúc về nhà
               trâu  của  mình  về,  xong  việc  lại  thả  vào   chồng. Ngoài vải tấm, người Tày còn dệt
               rừng. Để tìm trâu được dễ dàng, bà con          thổ cẩm với hoa văn tinh xảo, nhiều màu
               làm những chiếc mõ bằng tre hoặc bằng           sắc dùng làm mặt địu, vỏ chăn. Bông còn
               gỗ đeo vào cổ con trâu để khi trâu đi sẽ        dùng bật thành chăn đắp vào mùa đông;
               phát ra âm thanh. Ngoài trâu, người Tày         chăn bông Nà Hang nổi tiếng vì đẹp và
               nuôi lợn, gà, vịt... thả rông, đến khi lúa,     bền.  Ngoài  cây  bông  truyền  thống,  sau

               ngô sắp thu hoạch thì dùng dây buộc hoặc        này cũng có vùng người Tày trồng dâu,
               quây nhốt dưới sàn nhà. Mỗi gia đình có         nuôi tằm như người Kinh. Sản phẩm của
               4 - 5 con lợn, vài chục con gà, con vịt để      nghề  trồng  bông,  dệt  vải  chỉ  để  dùng
               dùng trong các ngày lễ, tết, cúng bái và cải    trong gia đình, ít khi đem trao đổi, buôn
               thiện bữa ăn hằng ngày. Ngày nay, đồng          bán.  Ngày  nay,  đồng  bào  mua  vải  dệt
               bào đã bỏ tập quán thả rông gia súc.            công nghiệp về dùng, ít trồng bông, dệt

                   Việc nuôi cá ruộng, cá ao khá phổ biến      vải như trước.
               và  có  từ  lâu  đời  trong  cộng  đồng  người      2- Nghề đan lát
               Tày. Đồng bào thường ngăn các khe suối              Người Tày rất giỏi đan lát. Từ nguyên
               lại, giữ nước hoặc đào thêm để làm ao thả       liệu là giang, tre, nứa, mây, song... người
               cá; mỗi gia đình thường có vài trăm mét         ta  làm  ra  những  sản  phẩm  hết  sức  tinh
               vuông ao, nhà nhiều có đến vài hécta. Cá        xảo,  mang  đặc  trưng  riêng  của  dân  tộc.
               nuôi  gồm  các  loại  như:  trắm,  mè,  chép,   Do đặc điểm địa bàn cư trú là rừng núi, bà
               trôi và một số giống cá địa phương bắt từ       con không dùng quang gánh hoặc đội như

               sông, suối về ao nhà thả, đặc biệt là các gia   người Kinh mà dùng đôi “dậu” để gánh
   171   172   173   174   175   176   177   178   179   180   181