Page 126 - Lịch sử đảng bộ Tuyên Quang 1945 - 1970
P. 126
Đàng mà hoàn chỉnh chủ trương cải tạo xã hội chủ nghĩa trên địa bàn tỉnh một
cách phù hợp. Tám năm sau Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ I (4-1951), Ban Chấp
hành Đảng bộ tỉnh được bầu lại, đảm bảo số lượng, cơ cấu, đủ năng lực cụ thể
hoá chủ trương, đường lối của Trung ương, lãnh đạo nhân dân thực hiện công
cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa.
Tháng 4-1959, Hội nghị lần thứ 16 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao
động Việt Nam (khoá II) thông qua hai Nghị quyết quan trọng: Nghị quyết về
vấn đề hợp tác hoá nông nghiệp và Nghị quyết về vấn đề cải tạo công thương
nghiệp tư bản tư doanh. Hội nghị Trung ương Đảng xác định nhưng vấn đề
đường lối, chính sách hợp tác hoá nông nghiệp phải kết hợp với hoàn thành cải
cách dân chủ. Hội nghị cũng đề ra chính sách cải tạo hoà bình đối với công
thương nghiệp tư bản tư doanh.
Tiếp theo Hội nghị Trung ương lần thứ 16, ngày 15 tháng 8 năm 1959, Bộ
Chính trị ra Nghị quyết về cuộc vận động hợp tác hoá nông nghiệp, phát triển
sản xuất kết hợp hoàn thành cải cách dân chủ ở vùng núi miền Bắc.
Bước đầu thực hiện Nghị quyết của Trung ương, trong năm 1959, công
tác cải tạo xã hội chủ nghĩa của tỉnh diễn ra mạnh mẽ. Tháng 1 năm 1959, tỉnh
đã thành lập Ban công tác nông thôn và hợp tác hoá nông nghiệp do đồng chí
Trần Hoài Quang, Phó Bí thư Tỉnh uỷ làm trưởng ban. Tới cuối năm 1959, toàn
tỉnh có 2.699 tổ đổi công gồm 14.366 hộ nông dân (chiếm 62, 24% số hộ),
phong trào hợp tác xã phát triển ở 113/160 hợp tác xã gồm 6.530 hộ (chiếm
27,8% số hộ nông dân), đã thí điểm đưa 13 hợp tác xã bậc thấp lên hợp tác xã
bậc cao. Vùng nông thôn có 62 hợp tác xã tín dụng, 103 xã đã có cơ sở hợp tác
xã mua bán.
Trong cải tạo công, thương nghiệp, chúng ta đã đưa 44% số hộ tiểu thủ
công, 29,3% số hộ tiểu thương và thương nghiệp thuần tuý vào hợp tác xã, hoàn
thành cải tạo công tư hợp doanh toàn ngành vận tải.
Xu thế đi lên chủ nghĩa xã hội đã thể hiện rõ trong các tầng lớp nhân dân.
Tuy nhiên, nhiều vấn đề cụ thể trong cải tạo nông nghiệp và công, thương
nghiệp tư doanh chưa được làm rõ, nhất là vấn đề kết hợp hoàn thành cải cách
dân chủ. Việc giáo dục, tuyên truyền và vận dụng đường lối, chính sách, cải tạo
xã hội chủ nghĩa của Đảng còn có những hạn chế.
Khi bắt tay vào thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa, tỉnh ta đã có nhiều
thuận lợi: Hệ thống chính trị đã được củng cố. Nhân dân có tinh thần cách mạng,
được giác ngộ và rèn luyện qua đấu tranh cách mạng, thực hiện nhiệm vụ hậu
phương kháng chiến. Vốn là vùng tự do, qua giảm tô, sửa sai và vận động sản
xuất, cải cách dân chủ nên uy thế chính trị, kinh tế của tư bản và phong kiến đã
suy yếu rất nhiều. Phong trào tổ đổi công phát triển sớm, được củng cố, mở rộng
trong thời kỳ khôi phục kinh té đã làm cho nông dân quen dần với xu hướng làm
ăn hợp tác, tương trợ. Yếu tố có ý nghĩa quyết định là tình hình kinh tế đã được
cải thiện, quyền làm chủ ruộng đất của nông dân đã được xác lập, lực lượng
quần chúng lớn mạnh, tích cực ủng hộ các nhân tố xã hội chủ nghĩa đã hình
thành trong các lĩnh vực chính trị, tư tưởng, kinh tế - xã hội.
126