Page 121 - Lịch sử đảng bộ Tuyên Quang 1945 - 1970
P. 121
chủ nghĩa đối với kinh tế cá thể của nông dân, thợ thủ công, người buôn bán nhỏ
và kinh tế tư bản tư doanh. Thực hiện chủ trương đó, Hội nghị Ban Chấp hành
Đảng bộ tỉnh (tháng 1-1958) xác định nhiệm vụ năm đầu tiên thực hiện kế hoạch
ba năm (1958 – 1960) là:... “ra sức củng cố và phát huy những thành tích đạt
được trong 3 năm, đồng thời tuỳ từng mặt, từng vùng, có kế hoạch phát triển lên
một bước; nhằm không ngừng cải thiện, nâng cao dần đời sống kinh tế, chính trị
và văn hoá của các dân tộc lên thêm một bước, chuẩn bị về tư tưởng, về tổ chức
và vật chất để tạo điều kiện thuận lợi góp phần xây dựng (quê hương) tiến dần
lên xã hội chủ nghĩa và góp phần vào công cuộc đấu tranh thống nhất đất
1
nước...” . Nghị quyết của Hội nghị còn nêu rõ: Kinh tế, tài chính là nhiệm vụ
trung tâm của cả năm, tất cả các nhiệm vụ khác đều phải hướng vào phục vụ
công tác trung tâm này. Trong kinh tế - tài chính, lấy sản xuất nông - lâm nghiệp
làm nhiệm vụ trọng tâm, trong đó, sản xuất nông nghiệp là cơ bản. Nhiệm vụ
của sản xuất nông nghiệp là đảm bảo đủ ăn, có dự trữ ở vùng làm ruộng, giảm
bớt, tiến tới xoá đói giáp hạt ở vùng cao.
Để hoàn thành vượt mức kế hoạch sản xuất nông nghiệp, phải coi trọng
hia vấn đề quyết định: Một là, phải tích cực mở mang thuỷ lợi, tăng thêm diện
tích có nước cày cấy, Hai là, bước đầu cải tạo nền kinh tế tiểu nông rộng lớn,
hướng dẫn nông dân đi vào con đường làm ăn tập thể, ra sức củng cố, nâng cao
và phát triển phong trào tổ đổi công theo phương châm “tích cực lãnh đạo, tiến
2
bước vững chắc” . Phải làm cho cán bộ, đảng viên thấy được ý nghĩa chính trị
của vấn đề đổi công, hợp tác là cơ sở đưa nông dân lao động tiến lên xã hội chủ
nghĩa.
Năm 1958, Tuyên Quang bước đầu cải tạo nền kinh tế nông nghiệp theo
con đường xã hội chủ nghĩa. Việc củng cố, phát triển phong trào tổ đổi công,
xây dựng hợp tác xã nông nghiệp được coi là “đòn bẩy thúc đẩy phát triển sản
xuất nông nghiệp”. Nông dân hưởng ứng mạnh mẽ phong trào tổ đổi công. Cuối
năm 1958, vùng nông thôn Tuyên Quang có 160 xã với 20.034 hộ nông dân
(chiếm 79% tổng số hộ nông dân toàn tỉnh), trong đó có 524 tổ đổi công thường
xuyên (tập trung sản xuất theo phương thức bình công chấm điểm) gồm 3.238
hộ nông dân. Kết quả này là bước chuẩn bị tích cực cho công cuộc hợp tác hoá
nông nghiệp theo phương châm “thận trọng, tiến bước vững chắc).
Đầu vụ mùa năm 1958, hợp tác Dàm - hợp tác xã sản xuất nông nghiệp
3
đầu tiên của tỉnh được thành lập . Hội nghị rút kinh nghiệm việc thí điểm thành
lập Hợp tác xã nông nghiệp đã họp từ ngày 7 đến 11-11-1958 với sự tham gia
của đại biểu các huyện, thị uỷ, cán bộ nông hội các huyện, cán bộ hợp tác xã
1 . Nghị quyết số 17/NQ-TQ ngày 15-2-1958 của Tỉnh uỷ Tuyên Quang về nhiệm vụ công tác năm 1958 của Đảng
bộ Tuyên Quang. (Tài liệu lưu trữ tại Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy).
2 . Báo cáo kiểm điểm công ác trước Hội nghị đại biểu Đảng toàn tỉnh tháng 1-1959 của Ban Chấp hành Đảngbộ
tỉnh Tuyên Quang. (Tài liệu lưu trữ tại Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng).
3 . Xem: Báo cáo về tình hình nghiên cứu xây dựng hợp tác xã thí điểm tại 2 xã Tứ Quận (Yên Sơn) và Yên
Nguyên (Chiêm Hoá). Báo cáo số 05/BC-NH ngày 16-6-1958 của Ban Thường vụ Nông hội Tuyên Quang.
Thôn Dàm thuộc xã Tứ Quận – Yên Sơn, có 29 hộ với 82 nhân khẩu, 60 lao động (100% đồng bào
Kinh), có 47 mẫu ruộng, 45 con trâu; thôn có 6 đảngviên, phong trào tổ đổi công được xây dựng từ năm 1951,
toàn bộ - 29 hộ nông dân của thôn đã tham gia sản xuất trong năm tổ đổi công thường xuyên.
121