Page 116 - Lịch sử đảng bộ Tuyên Quang 1945 - 1970
P. 116

Bước phát triển của phong trào cách mạng ở địa phương trong những năm
                     đầu sau  hoà bình lập lại cộng với tình hình, nhiệm vụ cách mạng mới đặt ra
                     những yêu cầu lớn đối vơi công tác xây dựng Đảng. Nhưng, do những yếu tố
                     khách quan, phải tập trung giải quyết nhiều nhiệm vụ đột xuất sau chiến tranh
                     nên từ cuối năm 1954, dù đã có nhiều cố gắng song kết quả công tác xây dựng
                     Đảng của Đảng bộ tỉnh còn hạn chế.
                            Hội nghị Tỉnh uỷ (mở rộng) tháng 7- 1955 đã nêu rõ rằng, trong công tác
                     xây dựng Đảng, chúng ta còn chủ quan, chưa lường trước được diễn biến tư
                     tưởng của cán bộ, đảng viên sau hoà bình, có nhiều thiếu sót trong công tác tổ
                     chức, chưa chú ý đào tạo cán bộ người dân tộc. Phương hướng công tác mới là:
                     kiên quyết bổ sung, cùng cố các cấp uỷ, các cơ quan kinh tế, tài chính và dân
                     vận; tăng cường hơn nữa công tác tư tưởng, đào tạo cán bộ; sửa đổi lối làm việc
                     của cấp uỷ, thực hiện tốt tự phê bình và phê bình trong Đảng.
                            Thực hiện chủ trương đó, từ cuối năm 1955, công tác xây dựng Đảng,
                     công tác chính trị, tư tưởng được đẩy lên một bước mới. Tháng 9 - 1955, Tỉnh
                     uỷ mở rộng Hội nghị cán bộ tổ chức, học tập Nghị quyết của Trung ương về
                     công tác tổ chức. Tiếp đó, tỉnh rà soát lại số lượng đảng viên, chi bộ, chất lượng
                     các cơ sở đảng, nắm bắt tình hình tư tưởng, những băn khoăn thắc mắc của cán
                     bộ, đảng viên, công tác lãnh đạo của các chi bộ và các cơ quan để xác định
                     phương pháp uốn nắn thiếu sót, sai lầm, khắc phục khuyết điểm, đặt kế hoạch
                     xây dựng đảng về mọi mặt.
                            Trong hai năm (1956 – 1957), qua học tập kế hoạch nhà nước, Nghị quyết
                     Hội nghị lần thứ 8,9,10 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá II), các đợt
                                                             1
                     “Huấn luyện đảng viên nông thôn” , Đảng ộ Tuyên Quang từng bước uốn nắn
                     những lệch lạc về mặt tư tưởng của đảng viên trước diễn biến của tình hình thế
                     giới và cuộc đấu tranh thống nhất đất nước, nâng  cao tinh thần phấn đấu, phục
                     vụ nhân dân, nâng cao nhận thức về nền kinh tế dân chủ, trang bị những kiến
                     thức ban đầu về con đường đi lên của chủ nghĩa xã hội của miền Bắc...cho cán
                     bộ, đảng viên và quần chúng.
                            Từ  tháng  9  đến  ngày  16-11-1956,  Tỉnh  uỷ  tổ  chức  Hội  nghị  mở  rộng,
                     kiểm điểm công tác lãnh đạo từ sau Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ I
                     (1951), chú trọng một số công tác chính như: Phát động quần chúng giảm tô,
                     chỉnh đốn tổ chức, thuế nông nghiệp, chống địch cưỡng ép đồng bào công giáo
                     di cư...
                            Tỉnh  uỷ  thẳng  thắn  chỉ  rõ  những  sai  lầm  đã  mắc  phải,  xác  định  trách
                     nhiệm của mình trong những sai lầm đó và nêu rõ những nguyên nhân dẫn tới
                     sai lầm và phương hướng khắc phục.
                            Qua thực hiện các công tác lớn, Đảng bộ tỉnh tăng cường kiện toàn tổ
                     chức, đào tạo cán bộ. Năm 1956, cán bộ là người dân tộc thiểu số đã chiếm 17%



                     1  . Tháng 9-1957, tỉnh bắt đầu tiến hành các đợt “Huấn luyện đảng viên nông thôn” với nội dung trọng tâm là
                     giáo dục đảng viên về tính chất, mục đích của Đảng, nhiệm vụ của chi bộ, đảng viên và nhiệm vụ công tác trước
                     mắt của Đảng. Chỉ trong tháng 1 tiến hành đợt I (từ 20 – 10-1957), tỉnh đã mở 48 lớp huấn luyện cho 1.151 đảng
                     viên của 103 chi bộ (gần 40% đảng viên toàn tỉnh).


                                                                116
   111   112   113   114   115   116   117   118   119   120   121