Page 118 - Lịch sử đảng bộ Tuyên Quang 1945 - 1970
P. 118
-1956” được tổ chức từ tháng 1 đến tháng 4-1956. Hàng ngàn cán bộ tham gia
vận động, giúp đỡ nhân dân chống hạn, chống rét, cứu được hơn 3.000 ha lúa
chiêm. Với nỗ lực của cán bộ và nhân dân, sản xuất nông nghiệp của tỉnh phục
hồi nhanh chóng trong đó có mặt bắt đầu phát triển. Năm 1956, sản xuất đạt
mức cao trong ba năm khôi phục kinh tế. Toàn tỉnh đã cấy được 21.938 ha lúa,
1
thu 47.995 tấn thóc , trồng 5.713 ha cây hoa màu (chủ yếu là cây sắn) 790 ha
cây công nghiệp, chăn nuôi được 39.200 con trâu, gần 50 ngành con lợn và đã
cung cấp cho đồng bằng 3.097 con trâu, bò.
Các ngành kinh tế khác cũng từng bước phát triển. Sản xuất lâm nghiệp,
tiểu thủ công nghiệp, giao thông vận tải, hoạt động lưu thông, phân phối đi dần
vào thế ổn định, tích cực phục vụ sản xuất nông nghiệp, khôi phục kinh tế.
Trong các lĩnh vực này, vai trò của kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể ngày càng
cao. Chỉ riêng năm 1956, tỉnh đã thành lập 312 tổ khai thác lâm sản với 3.440
3
người, toàn tỉnh khai thác 60.374m gỗ, điều tra thám sát 79.154 ha và khoanh
2
nuôi 30.110 ha rừng ; giá trị sản lượng khai thác lâm sản đạt mức tương đương
10.405 tấn thóc. Các cơ sở tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp đẩy mạnh cải tiến
kỹ thuật, tăng năng suất, hạ giá thành sản phẩm. Năm 1957, các cơ sở sản xuất
nông cụ hoàn thành vượt mức kế hoạch 5% cung cấp cho nông dân trên 35 ngàn
công cụ với giá thành hạ và chất lượng cao hơn so với các năm trước. Trong
năm 1957, tỉnh đã xây dựng thêm 45 cơ sở tiểu thủ công nghiệp với các ngành,
nghề chính là cơ khí, vật liệu xây dựng, sản xuất hàng tiêu dùng...
Tỉnh tiếp tục đẩy mạnh việc sửa chữa, mở mang các tuyến đường giao
thông, tăng cường lực lượng vận tải, phát triển mạng lưới thương nghiệp với
3
phương châm ưu tiên mở rộng những cơ sở thương nghiệp xã hội chủ nghĩa ,
điều hành tốt hoạt động tài chính, tiền tệ. Tới năm 1956, hầu hết các tuyến
đường quan trọng đã thông suốt. Tổng lượng hàng hóa vận chuyển trong năm
đạt 95.576 tấn. Thương nghiệp quốc doanh đã có 16 cửa hàng, trạm, tổ mua bán
và 186 đại lý, năm 57% lượng hàng hóa bán ra trên thị trường. Năm 1956, sức
tiêu thụ hàng hóa của nhân dân tăng 200% so với năm 1955.
Trong ba năm khôi phục kinh tế, sự nghiệp giáo dục, văn hóa, y tế bắt đầu
phát triển, đi vào chiều sâu. Tỉnh chăm lo củng cố phong trào bình dân học vụ,
4
bổ túc văn hóa, từng bước mở rộng, phát triển các trường học phổ thông . Nhân
dân các dân tộc tích cực học tập, nang cao trình độ văn hóa. Cuối năm 1955, có
139 xã có phong trào bình dân học vụ (tăng 79 xã sơ với đầu năm). Giáo dục
1 . Sản lượng lương thực bình quân trong thời kỳ kháng chiến (tính cả huyện Yên Bình) là 46.200 tấn. Theo báo
cáo ngày 15-1-1957 của Ty nông nghiệp Tuyên Quang thì trong năm 1956 tỉnh cấy được 22.883,5 ha lua, sản
lượng thóc đạt 50.865,3 tấn.
2 . Theo Báo cáo về tình hình công tác lâm nghiệp năm 1956 số 2112/KTTC ngày 12-1-1957 của Ủy ban hành
chính tỉnh; năm 1956, diện tích rừng toàn tỉh có khoảng 400.000 ha, trong đó 25% là rừng ót, 40 số rừng gỗ đã
hết khả năng khai thác.
3 . Theo Nghị quyết về nhiệm vụ công tác năm 1956, số 17/NQ-TQ ngày 15-2-1956 của Tỉnh ủy Tuyên Quang:
Doanh số mua vào các ngành bách hóa, lâm sản, lương thực năm 1956 là 2 tỷ, năm 1957 là 3 tỷ, doanh số bán ra
của các cơ sở này năm 1956 là 3,9 tỷ, năm 1957 là 4,2 tỷ đồng.
4 . Năm 1955 có 9.557 người theo học tại 1.245 lớp bình dân học vụ, bổ túc văn hóa. Năm 1956 tỉnh bồi dưỡng
570 giáo viên bình dan học vụ, tập huấn cho 506 giáo viên phổ thông, xóa mù chữ cho 7.956 người (bằng 390%
năm 1955), các lớp phổ thông cấp I – II có 7.123 học sinh.
118