Page 122 - Lịch sử đảng bộ Tuyên Quang 1945 - 1970
P. 122
nông nghiệp của tỉnh...Các đại biểu tham dự Hội nghị đã đi thực tế một tháng
rưỡi ở các địa bàn, vận đồng thành lập được 8 hợp tác xã. Cuối năm 1958 toàn
tỉnh có 9 hợp tác xã sản xuất nông nghiệp. Nhiều kinh nghiệm được đúc rút qua
đợt thí điểm để áp dụng cho thời kỳ mở rộng phong trào hợp tác hoá nông
nghiệp.
Cùng với phong trào đổi công, hợp tác xã, các cơ sở quốc doanh trong sản
xuất nông nghiệp (Nông trường Sông Lô, Nông trường Tháng Mười, Nông
trường Tân Trào) được thành lập đã góp phần đẩy mạnh phong trào hợp tác hoá
nông nghiệp.
Năm 1958, sản xuất nông nghiệp bị thiên tai đe doạ. Tuy hạn hán kéo dài
suốt trong vụ đông xuân, gối sang vụ mùa, nhưng nhân dân đã cố gắng cao nên
đã hạn chế được sự thiệt hại do thiên tai gây ra. Ngày 8-1-1958, Ban Thường vụ
Tỉnh uỷ ra Chỉ thị số 01/CT-TQ, chỉ đạo các địa phương phải tập trung lực
lượng đẩy mạnh công tác chống hạn, đảm bảo tốt kế hoạch sản xuất vụ lúa
chiêm và hoa màu đông xuân. Phong trào thi đua lao động, phòng chống hạn
kéo dài diễn ra sôi nổi. Tuy vụ đông xuân chỉ đạt 99,26% kế hoạch về diện tích,
93% kế hoạch về sản lượng, nhưng trong khó khăn gay gắt, kết quả này là nguồn
động viên rất lớn phong trào sản xuất của quần chúng.
Hội nghị sơ kết vụ chiêm (5-1958) đã bàn khá kỹ công tác chuẩn bị cho
sản xuất vụ mùa. Tỉnh tổ chức học tập kế hoạch nhà nước ba năm cho trên 300
cán bộ lãnh đạo chủ chốt các xã, các ngành ở tỉnh, huyện và 72% đảng viên toàn
tỉnh, từ đó triển khai rộng rãi trong nhân dân.
Ngày 24-5-1958, Tỉnh uỷ ra Chỉ thị số 09/CT-TQ vạch rõ: Phải phát động
một phong trào thi đua sản xuất, tiết kiệm thật rộng lớn, mạnh mẽ, động viên
toàn Đảng, toàn dân phấn đấu hoàn thành vượt mức nhiệm vụ sản xuất lương
thực của vụ mùa và cả năm. Để đảm bảo nhiệm vụ đó, phải giải quyết tốt các
vấn đề mấu chốt: đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, củng cố phong trào
đổi công hợp tác; củng cố tổ chức, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, chính
quyền và phối hợp công tác giữa các ngành.
Vụ mùa năm 1958, sản xuất gặp nhiều khó khăn. Tới 20-7-1958, ở 23 xã
thuộc 2 huyện Sơn Dương và Yên Sơn, đã có 6.614 mẫu (chiếm 30% tổng diện
tích ruộng của các xã này) không có nước cấy. Chủ trương và quyết tâm của tỉnh
là phải tự túc về lương thực với mục tiêu đủ ăn và có lương thực dự trữ. Sản
xuất lương thực là vấn đề cấp bách , song trong cán bộ, đảng viên, nhân dân,
không ít người lại có tư tưởng thoả mãn với kết quả đã đạt được. Thậm chí, một
số cấp uỷ buông lỏng công tác lãnh đạo sản xuất, có người chưa tin vào khả
nắng phát triển kinh tế của tỉnh miền núi còn lác hậu về kỹ thuật canh tác.
Trước tình hình đó, trong phiên họp ngày 25-7-1958, Tỉnh uỷ đã phân
công công tác cho các đồng chí Tỉnh uỷ viên phụ trách từng huyện, chịu trách
nhiệm Đảng bộ tỉnh về công tác sản xuất vụ mùa; chỉ đạo các đồng chí Bí thư
huyện uỷ trực tiếp phục trách công tác sản xuất lâu dài của huyện, các huyện
phải thành lập, củng cố tiểu ban sản xuất.
122