Page 119 - Lịch sử đảng bộ Tuyên Quang 1945 - 1970
P. 119

phổ thông được cải tiến và có nề nếp hơn. Tới cuối năm 1957, toàn tỉnh có 120
                     trường  cấp  I với  5.828 học  sinh,  11 trường  cấp  II  với 731 học  sinh, 60% số
                     người trong độ tuổi được công nhận thoát nạn mù chữ. Năm 1956, trung bình 10
                     người dân được mua 6 quyển sách, có 171.941 lượt người đi xem phim; tỉnh
                     khánh thành nhà văn hóa thị xã, phòng triển lãm thu hút 27.000 lượt người tới
                     xem, cùng cố 45 đội văn nghệ  cơ sở, mở cuộc thi sáng tác văn nghệ với 1.500
                     tác phẩm dự thi có tác dụng tuyên truyền, phục vụ các công tác trọng tâm.
                            Thực  hiện  chủ  trương  “tích  cực  xây  dựng  cơ  sở  y  tế  ở  nông  thôn, lấy
                     phòng bệnh là chính”, tỉnh làm tốt công tác chăm lo sức khỏe cho nhân dân, tích
                                                                              1
                     cực phòng, chóng bệnh sốt rét ác tính và sưng phổi . Chỉ trong 6 tháng cuối năm
                     1955, cán bộ y tế về 92 xã, phát hơn 10 vạn viên thuốc, chữa bệnh cho 4.853
                     người, cứu sống 149 bệnh nhân bị sốt rét ác tính, tiêm phòng bệnh tả, đậu mùa
                     cho 50% dân số (hơn 8 vạn người). Các trạm xá, bệnh viên khám, chữa bệnh cho
                     19.330 lượt người. Tỉnh đào tạo, huấn luyện 471 y tá, hộ sinh, cứu thương và vệ
                     sinh viên. Năm 1956, các xã xây dựng 116 ban phòng bệnh xã, 520 túi thuốc
                     xóm, đào tạo 130 y tác xã, 105 hộ sinh và 1.362 vệ sinh xóm.
                            Trong quá trình lãnh đạo nhân dân khôi phục và phát triển kinh tế, văn
                     hóa, Tỉnh ủy Tuyên Quang cũng bắt đầu tìm tòi, xác định phương hướng đi lên
                                                              2
                     của đồng bào các dân tộc vùng cao . Việc ổn định, cải thiện đời sống, giúp dỡ
                     đồng bào dân tộc ít người phát triển được coi là một trong những nhiệm vụ lớn.
                     Tỉnh ủy xác định: Yêu cầu của công tác vùng cao là hướng dẫn, giúp đỡ đồng
                     bào sản xuất, chủ yếu là lúa và ngô, tiến tới xóa được nạn đói chu kỳ, gây dần cơ
                     sở sản xuất lâu dài với tinh thần tự lực, cánh sinh. Các biện pháp chủ yếu để đưa
                     vùng cao đi lên là điều tra, tìm các nguồn tài nguyên của vùng cao để hướng dẫn
                     khai thác và tổ chức tiêu thụ và để tăng thu nhập cho nhân dân, các ngành kinh
                     tế - tài chính, văn hóa - xã hội phải có kế hoạch cụ thể phục vụ và giúp đỡ vùng
                     cao, tiến hành vận động đồng bào xuống núi, định canh, định cư.
                                                                                            3
                            Việc vận động đồng bào xuống núi, định canh, định cư  là một công tác
                     lớn, nằm trong kế hoạch cải thiện dần đời sống của đồng bào, đòi hỏi phải “kiên
                     trì, thận trọng, làm từng bước tỉ mỉ, phải giải quyết từng ly, từng tý cả về tư
                     tưởng lẫn vật chất”. Năm 1955, có 51 hộ với 229 nhân khẩu thuộc các dân tộc;
                     Thanh Y, Đại Bản, Dao Tiền, Cao Lan xuống núi làm ruộng ở Vinh Phú (Yên
                     Sơn), Ao Cam, Gốc Ổi (Hàm Yên), Đồng Vàng (Chiêm Hóa). Bước đầu, tỉnh
                     cấp cho các hộ này gần 46 mẫu ruộng (loại tốt), ngân hàng cho vay tiền mua 10
                     con trâu, 5 chiếc cày và các loại nông cụ, nhân dân địa phương giúp bốn tạ thóc
                     giống và đã cấy 45 mẫu 8 sào ruộng, 24 mẫu lúa nương, 22 mẫu khoai, 5.980
                     gốc sắn.



                     1 . Báo cáo số 95/BC-TQ về kiểm điểm công tác  năm 1955 ngày 15-12-1955 của Tỉnh ủy: Mùa đông năm 1954-
                     1955, bệnh tật phát sinh nhiều. Trong 58 xã đã có 485 người bị chết vì sưng phổi và sốt rét ác tính..
                     2 . Tới giữa năm 1957, toàn tỉnh có 3.521 hộ với 13.027 nhân khẩu chuyên sống bằng nương, rẫy, tạp trung nhiều
                     nhất ở Chiêm Hóa, Nà Hang. Đời sống của đồng bào rất khó khăn, thiếu đói nặng, 6 tháng đầu năm 1957 tỉnh đã
                     phải cấp 21.449 kg gạo cứu tế cho 390 gia đình gồm 1836 nhân khẩu tại các huyện: Chiêm Hóa, Hàm Yên, Nà
                     Hang, Yên Sơn. (Báo cáo số 15/BC-TQ về công tác 6 tháng đầu năm 1957 của Tỉnh ủy).
                     3 .


                                                                119
   114   115   116   117   118   119   120   121   122   123   124