Page 124 - Lịch sử đảng bộ Tuyên Quang 1945 - 1970
P. 124

đề lương thực, đời sống của nhân dân các dân tộc được cải thiện thêm một phần;
                     phong trào đổi công, hợp tác xã có tiến bộ và đang ở đà tiến lên, đi dần vào nề
                     nếp. Nhưng trên 2 lĩnh vực này, tỉnh còn bộc lộ một số thiếu sót: Thiếu những
                     chủ trương về những vấn đề lớn, những biện pháp thiết thực để phát triển nông
                     nghiệp. Phong trào hợp tác xã, tổ đổi công phát triển không đều giữa các vùng.
                     Cán bộ, đảng viên còn quan niệm rất giản đơn về vấn đề đổi công, hợp tác xã,
                     chưa thấy rõ đây là con đường duy nhất để thoát đói nghèo; các cấp uỷ, cán bộ,
                     đảng viên cần phải giáo dục quần chúng tự nguyện đi theo để đẩy mạnh sản
                     xuất, cải tiến ký thuật, xoá bỏ bóc lột, giải phóng hoàn toàn sức xuất ở nông
                     thôn để đưa nông thôn lên chủ nghĩa xã hội.
                            Báo cáo kiểm điểm công tác năm 1958 cũng vạch rõ: Từ hoà bình lập lại,
                     miền Bắc nước ta bước sang thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Để hoàn thành
                     nhiệm vụ cải tạo và xâu dựng chủ nghĩa xã hội, tiếp tục cuộc đáu tranh thống
                     nhất đất nước. Đảng bộ đã phải củng cố cả về tư tưởng và tổ chức. Trong lĩnh
                     vực này, cần khắc phục sớm một số biểu hiện không tốt như: tư tưởng mệt mỏi,
                     muốn nghỉ ngơi, chỉ chăm lo việc nhà...”Thực chất, vấn đề đó biểu hiện tính tự
                     phát tư bản chủ nghĩa của nền kinh tế tiểu nông”.
                            Phân tích sâu những diễn biến, kết quả trên một số lĩnh vực công tác trọng
                     tâm của năm 1958. Hội nghị khẳng định: Năm 1958, Đảng bộ đã lãnh đạo, động
                     viên nhân dân các dân tộc đoàn kết, thi đua, thu được nhiều thành tựu đáng kế.
                     Đảng bộ đoàn kết, vững mạnh. Hiện nay, trong cán bộ, đảng viên, trong nhân
                     dân  các  dân  tộc  đang  có  đà  phấn  khởi  mới,  lãnh  đạo  có  thêm  kinh  nghiệm,
                     phong trào sản xuất và các phong trào khác có thêm nhiều triển vọng. Trên cơ sở
                     tinh thần, vật chất ấy, chắc chắn ta có nhiều điều kiện thi đua tiến lên xã hội chủ
                     nghĩa với một nhịp độ mạnh hơn, nhanh hơn mấy năm qua.
                            Hội nghị xác định nhiệm vụ chung của năm 1959 là::
                            - Thật khẩn trương thực hiện nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa. Khâu
                     chính là ra sức mở rộng và nâng cao chất lượng phong trào tổ đổi công, đẩy
                     mạnh công cuộc hợp tác hoá nông nghiệp, đồng thời chú trọng cải tạo thủ công
                     nghiệp và thương nghiệp tư nhân tư doanh.
                            - Triệt để sử dụng kết quả của công cuộc cải tạo, ra sức phát triển sản xuất
                     (trọng tâm là sản xuất nông nghiệp) và phát triển văn hoá, nâng cao mức sinh
                     hoạt vật chất, văn hoá của nhân dân các dân tộc.
                            - Trong khi thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hoá, phải tiến hành
                     việc xây dựng lực lượng, củng cố quốc phòng, củng cố và kiện toàn chính quyền
                     dân chủ nhân dân, giữ gìn an ninh trật tự...Đồng thời, ra sức phát triển, củng cố
                     các tổ chức quần chúng, tăng cường mối liên hệ giữa Đảng với quần chúng để
                     đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ cải tạo dân chủ, cải tạo và phát triển kinh tế, phát
                                   1
                     triển văn hoá .
                            Về nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa, Hội nghị không chỉ dừng lại mục

                     tiêu của năm 1959 mà xác định mục tiêu cơ bản của cả một giai đoạn: “Thực

                     1 . Nghị quyết Hội nghị toàn Đảng bộ Đảng Lao động Việt Nam tỉnh Tuyên Quang về nhiệm vụ công tác năm
                     1959. (Tài liệu lưu trữ tại Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ, hồ sơ Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ II).


                                                                124
   119   120   121   122   123   124   125   126   127   128   129