Page 128 - Lịch sử đảng bộ Tuyên Quang 1945 - 1970
P. 128
Hai là, nâng cao giác ngộ giai cấp cho nông dân, xác định rõ danh giới
thành phần giai cấp ở nông thôn, xoá bỏ tàn tích chế độ phong kiến, giữ vững an
ninh, trật tự.
Ba là, bồi dưỡng, đào tạo cán bộ cốt cán các dân tộc, củng cố hệ thống
chính trị ở nông thôn.
Bốn là, kết hợp hoàn thành tốt công tác trung tâm là sản xuất nông nghiệp
và các công tác khác.
Cụ thể hoá hơn nữa mục tiêu của công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa trên
địa bàn tỉnh, Hội nghị Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh (mở rộng) tháng 2 năm 1960
xác định: Trong năm 1960 phải đưa 80% số hộ nông dân vào hợp tác xã, (trong
đó có 25% số hộ vào hợp tác xã bậc cao). Song song với hợp tác hoá nông
nghiệp, phải mở rộng và củng cố phong trào hợp tác hoá thủ công nghiệp, tiểu
thương và đẩy mạnh cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh. Căn bản hoàn
thành hợp tác hoá nông nghiệp là nhiệm vụ hết sức nặng nề, song sẽ tạo ra một
chuyển biến cách mạng ở nông thôn. Do vậy, phải tăng cường lãnh đạo công tác
hợp tác hoá nông nghiệp, tất cả các ngành có liên quan đến nông nghiệp, nông
thôn phải coi phục vụ công tác hợp tác hoá nông nghiệp là nhiệm vụ cấp bách.
Qua bước làm thí điểm, sau nhiều hội nghị, Đảng bộ tỉnh đã làm rõ mục
tiêu căn bản của công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa là nhằm xác lập quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa. Hợp tác hoá nông nghiệp là khâu chính trong công tác cải
tạo xã hội chủ nghĩa của tỉnh. Nội dung của nó bao gồm 3 mặt: Cải tạo quan hệ
sản xuất, cải tiến kỹ thuật và giáo dục tư tưởng.
Đảng bộ tỉnh cũng chỉ ra rằng: Thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa, phải
thay thế các hình thức sở hữu cá thể bằng các hình thức sở hữu tập thể, nhằm
mục địch phát triển kinh tế, ổn định đời sống nhân dân lao động. Nó phải đi dần
từng bước, từ tổ đổi công với các hình thức từ thấp đến cao (đổi công từng vụ,
đổi công thường xuyên đến đổi công chấm điểm), rồi tứ đó chuyển sang xây
dựng hợp tác xã bậc thấp theo nguyên tắc tự nguyện, cùng có lợi và quản lý dân
chủ. Trong quá trình thực hiện hợp tác hoá nông nghiệp, phải thực hiện tốt
đường lối giai cấp của Đảng là: Dựa hẳn vào bần nông và trung nông lớp dưới,
đoàn kết chặt chẽ với trung nông, hạn chế, đi đến xoá bỏ sự bóc lột kinh tế của
phú nông cải tạo phú nông; ngăn ngừa sự ngóc đầu dậy của địa chủ, tiếp tục mở
đường cho địa chủ lao động cải tạo trở thành con người mới; kiên quyết đưa
nông dân đi vào con đường hợp tác hoá nông nghiệp tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, phong trào hợp tác hoá nông nghiệp
sẽ diễn ra mạnh mẽ. Từ tháng 10- 1959 đến tháng 10-1960 tỉnh đã tiến hành 3
đợt vận động hợp tác hoá nông nghiệp, phát triển sản xuất kết hợp hoàn thành
1
cải cách dân chủ . Trên tất cả các địa bàn, nhiều nơi xin lập ngay hợp tác xã bậc
1 . Đợt thí điểm, tỉnh làm tại 3 xã từ tháng 10-1959, các huyện làm thí điểm tại 14 xã (từ 10-2-1960 đến 10-3-
1960). Đợt 1 bắt đầu từ 15-3-1960 tại 83 xã và khu vực nông thôn của thị xã Tuyên Quang. Đợt 2 bắt đầu từ 15-
7-1960 ở 60 xã còn lại. Toàn tỉnh đã bồi dưỡng nghiệp vụ hợp tác hoá nông nghiệp cho 595 cán bộ. Hơn 90%
chi uỷ viên, 75% đến 85% cán bộ và đại biểu hội đồng nhân dân xã không phải là đảng viên, 80% nhân dân tham
gia học tập các tài liệu của Đảng, Nhà nước về cuộc vận động hợp tác hoá nông nghiệp kết hợp hoàn thành cải
cách dân chủ.
128