Page 131 - Lịch sử đảng bộ Tuyên Quang 1945 - 1970
P. 131
lượng, bỏ qua các bước tuần tự của hợp tác hoá nông nghiệp. Nhiều lúc cán bộ
chỉ đạo chạy theo phong trào quần chúng. Việc làm ồ ạt, tập trung, dẫn tới việc
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ không theo kịp tốc độ phát triển của phong trào hợp
tác xã. Hầu hết các nguyên tắc hợp tác hoá nông nghiệp (thận trọng, coi trọng
chất lượng, tự nguyện cùng có lợi, quản lý dân chủ...) tuy đã được quán triệt
song đều bị vi phạm. Ở giai đoạn đầu,các hợp tác xã còn lúng túng trong quản
lý, cơ sở vật chất, kỹ thuật yếu kém, lạc hậu, năng suất lao động chưa cao,
không ổn định...
Trong thời kỳ cải tạo xã hội chủ nghĩa, công tác xây dựng đảng gắn bó
chặt chẽ với nhiệm vụ củng cố hệ thống chính trị, lãnh đạo quần chúng thi đua
thực hiện kế hoạch nhà nước, đấu tranh chống Mỹ - Diệm.
Khi bắt đầu công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, Đảng bộ tỉnh đã sớm vạch
rõ: Nhiệm vụ lãnh đạo nông dân phát triển sản xuất theo con đường đổi công,
hợp tác xã ngày càng trở thành nhiệm vụ trung tâm của Đảng ở nông thôn. Do
vậy, yêu cầu xây dựng cơ sở đảng cả về tư tưởng, tổ chức cần phải được tiến
hành nhanh, mạnh. Công tác giáo dục lý luận chính trị được tăng cường để trang
bị cho cán bộ, đảng viên những kiến thức phổ thông về chủ nghĩa xã hội, nhiệm
vụ của miền Bắc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Từ tháng 10 - 1958
đến tháng 3-1959, tỉnh tiến hành 3 đợt giáo dục đảng viên nông thôn. Trong các
đợt chỉnh huấn mùa xuân và mùa thu 1960, 73,6% số đảng viên toàn tỉnh tham
gia học tập. đặc biệt, đợt chỉnh huấn giữa năm 1959, qua học tập Nghị quyết Hội
nghị lần thứ 14, lần thứ 15 và lần thứ 16 của Ban Chấp hành Trung ương, cán
bộ, đảng viên nhận rõ hai nhiệm vụ cách mạng hiện nay, nhận thức sâu sắc hơn
về con đường lên chủ nghĩa xã hội, nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng.
Công cuộc tải tạo xã hội chủ nghĩa cùng với phng trào thi đua nở rộ trên
khắp các lĩnh vực đã sản sinh ra những quần chúng ưu tú, hăng hái lao động, sản
xuất, phấn đấu cho chủ nghĩa xã hội, tạo điều kiện cho công tác phát triển đảng
phát triển mạnh. Năm 1959, Đảng bộ kết nạp 457 đảng viên mới. Đầu năm
1960, trong đợt "phát triển đảng lớp 6-1" và nhân kỷ niệm 30 năm ngày thành
lập Đảng, 512 quần chúng ưu tú đã được kết nạp vào Đảng. Cuối năm 1960,
Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang gồm 5.060 đảng viên.
Các cơ sở đảng phát triển nhanh, mạnh, thường xuyên được củng cố. đầu
năm 1959, tỉnh có 193 chi bộ, còn 6 xã chưa có đảng viên, tới cuối 1960, Đảng
bộ tỉnh có 243 chi bộ (163 chi bộ nông thôn), tất cả các xã đều có đảng viên, chỉ
còn 2 xã chưa có chi bộ. Cuối năm 1958 đầu năm 1959 và trong 3 tháng đầu
năm 1960 các cấp bộ đảng tiến hành Hội nghị đại biểu và Đại hội. Trên cơ sở
này, các cấp uỷ kiện toàn. Cuối 1960, toàn Đảng bộ có 1.147 chi uỷ viên, 87
huyện uỷ viên và tương đương. Các cơ sở đảng đều chuyển biến mạnh mẽ trong
công tác lãnh đạo, tập hợp, tổ chức quần chúng thực hiện nhiệm vụ chính trị.
Từ sau ngày hoà bình lập lại, chính quyền nhân dân ngày càng được củng
cố, phát triển và hoàn thiện. Quá trình đó được đẩy mạnh khi bắt tay cải tạo xã
hội chủ nghĩa. Bộ máy chính quyền các cấp chuyển mình cả về cơ cấu tổ chức
lẫn phương thức hoạt động. Trong hoàn cảnh mới, nhân dân ngày càng có thêm
131