Page 130 - Lịch sử đảng bộ Tuyên Quang 1945 - 1970
P. 130
xã viên và cổ đông. Hợp tác xã tín dụng và hợp tác xã mua bán đã góp phần mở
rộng hoạt động lưu thông, phân phối xã hội chủ nghĩa ở nông thôn.
Qúa trình cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với tiểu thương, thủ công nghiệp và
công, thương nghiệp tư bản tư doanh diễn ra nhanh, thuận lợi. Tới tháng 11-
1960 có 98% số hộ tiểu thủ công nghiệp và 66,4% số hộ tiểu thương đã tham gia
1
các loại hình hợp tác xã .
Hoạt động của tư bản tư doanh ở tỉnh ta chủ yếu diễn ra trên lĩnh vực
thương nghiệp, tư sản công nghiệp ít, hầu hết tư sản đều thuộc loại nhỏ và vừa,
hoạt động không chuyên doanh, đa số xuất thân từ dân lao động, mới giàu lên
trong thời gian kháng chiến và từ sau hoà bình lập lại. Do vậy, thế lực kinh tế
không lơn, nhiều hộ vẫn tiếp tục tham gia lao động, bản thân họ và gia đình đã
từng tham gia kháng chiến và có thái độ ủng hộ chế độ. Tỉnh xác định chủ
trương chung cải tạo công, thương nghiệp tư bản tư doanh là: sử dụng, hạn chế
và cải tạo. Phương châm cải tạo: thực hiện bằng phương pháp hoà bình, lấy giáo
dục chính sách và áp lực chính trị của công nhân, nhân dân lao động làm chính.
Đây là chủ trương đúng đắn, phù hợp với thực tế phân hoá giai cáp ở thành thị
tỉnh ta.
Sau đợt làm thí điểm (từ tháng 10-1959 đến 6-1-1960) tỉnh tiến hành đợt
làm tập trung từ tháng 4 đến tháng 6 -1960 đối với tất cả các hộ thuộc diện phải
cải tạo. 29 cán bộ các ngành cấp tỉnh, năm đồng chí Tỉnh uỷ viên và một đồng
chí Thường vụ Tỉnh uỷ được tập trung để chỉ đạo trực tiếp công tác này. Công
nhân, cán bộ, các hộ tiểu thủ công nghiệp, tiểu thương...hăng hái tham gia học
tập chính sách, đấu tranh cải tạo tư sản. ở thị xã, qua 34 cuộc họp có 4.253
người tham gia học tập. Cuộc đấu tranh giai cấp đã làm chuyển biến căn bản tư
tưởng của quần chúng lao động, nâng cao ý thức giác ngộ xã hội chủ nghĩa trong
nhân dân, đánh đổ hoàn toàn uy thế kinh tế, chính trị của tư sản.
Xây dựng công nghiệp quốc doanh địa phương, phát triển sản xuất thủ
công nghiệp là một nhiệm vụ quan trọng, gíp phần tích cực vào cải tạo quan hệ
sản xuất cũ, xác lập quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa. Trong năm 1959, xí
nghiệp sửa chữa cơ khí nhỏ, mỏ phốt phát thịnh Cường (Hàm Yên), nhiều cơ sở
làm mật, đường, gạch, ngói...được xây dựng; nhà máy điện, xưởng in được trang
bị thêm máy móc, mở rộng sản xuất.
Cuối năm 1960, Tuyên Quang cơ bản hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa
đối với các hộ nông dân cá thể, thợ thủ công, tiểu thương và công, thương
nghiệp tư bản tư doanh, xây dựng chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa (bao gồm sở
hữu toàn dân và sở hữu tập thể) xoá bỏ chế độ bóc lột, xác lập quan hệ sản xuất
xã hội chủ nghĩa làm cơ sở cho thắng lợi về các mặt chính trị, kinh tế, văn hoá,
xã hội...
Tuy vậy, trong khi tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa, chúng ta cũng còn
thiếu sót, khuyết điểm. Nhằm mục tiêu cơ bản hoàn thành cải tạo xã hội chủ
nghĩa trong năm 1960, ở các địa phương đều có tình trạng gò ép, chạy theo số
1 . Tháng 6-1960 tỉnh co s26 hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp vớ 553 hộ xã viên 374 hộ tiểu thương đã tham gia
các loại hình hợp tác xã.
130