Page 999 - DIA CHI TUYEN QUANG_PHAN DAU
P. 999

999
                                                                        Phêìn thûá nùm: VÙN HOÁA


               bề mặt - nơi tiếp xúc với cột được tạc hình     mang nhiều nét của cư dân văn hóa vùng
               tròn, có đường kính 25-35 cm. Các tảng kê       cao,  không  được  chạm  khắc  trau  chuốt,
               chân cột này là vị trí đặt hệ thống cột của     đường nét không mềm mại nhưng rất có
               bộ  khung  chịu  lực  của  chùa.  Tuy  nhiên,   hồn, dáng vẻ tự nhiên.
               vẫn chưa phát hiện được dấu vết của các

               vật  liệu  kiến  trúc  như  gạch  chỉ,  gạch  bó    6. Đền Hạ
               vỉa, gạch lát nền... nên có thể đoán định           Đền  Hạ  thuộc  phường  Tân  Quang,
               chùa ban đầu là một toà nhà được dựng           thành phố Tuyên Quang. Vị trí đền được
               bằng gỗ với hệ thống kèo và tảng kê chân        miêu tả trong câu đối:
               cột bằng đá. Toàn bộ sức nặng của bộ mái            “Lô Giang tại kỳ tiền
               được dồn xuống hệ thống cột và tảng kê              La Sơn tại kỳ hậu”.

               chân cột, xung quanh không xây gạch mà              Nghĩa là:
               có thể là hệ thống ván thưng bằng gỗ, nền           “Sông Lô ở trước mặt
               chùa không lát gạch. Đây là dạng kiến trúc          Núi Là ở sau lưng”.
               khá phổ biến ở các ngôi chùa làng vùng              Trải  qua  các  thời  kỳ,  đền  có  tên  gọi
               đồng bằng trung du Bắc Bộ.                      khác nhau: đền Tam Kỳ, đền Hiệp Thuận.

                   Trong khuôn viên chùa, người ta còn             Căn  cứ  vào  dòng  chữ  trên  thượng
               tìm được các mảnh tháp đất nung; có thể         lương:  “Ngày  28-6  năm  Mậu  Ngọ,  ngày
               khẳng định đây là ngôi tháp đất nung có         tốt đặt cây thượng lương”, xác định được
               niên đại vào thời Trần (thế kỷ XIII - XIV).     niên  đại  xây  dựng  đền  với  quy  mô  lớn
               Trên nền ngôi chùa còn phát lộ nhiều cụm        là  năm  Mậu  Ngọ  (1738),  đời  Vua  Cảnh
               hiện vật và các vật liệu kiến trúc được trang   Hưng. Hiện vật cổ nhất trong đền là một

               trí hoa văn mang phong cách của nghệ thuật      chiếc chuông lớn. Trên chuông ghi: “Triều
               thời Trần, như: hình chim thần Garadu, các      Vua  Cảnh  Hưng  vạn  vạn  năm,  năm  thứ
               mảng phù điêu hình rồng mang đặc trưng          hai mươi, năm Kỷ Mão chính đông, ngày
               của phong cách tranh rồng thời Trần, các        tốt đúc xong kính báo”. Kỷ Mão là năm

               hiện  vật  được  tạo  hình  chắc  mập,  khỏe    1759, đời Vua Lê Hiển Tông. Căn cứ niên
               khoắn, đường nét điêu khắc rõ ràng.             đại trên chuông có thể thấy đền được xây
                   Chùa  Phúc  Lâm  hiện  nay  do  nhân        dựng vào thời Lê.
               dân  trong  vùng  dựng  lên  trên  nền  đất         Đền thờ hai công chúa là Ngọc Lân và
               cũ, theo hướng tây nam. Chùa được bao           Phương Dung (còn có tên là Mai Hoa và

               bọc bởi dãy núi Thượng Lâm trùng điệp           Quỳnh Hoa). Truyền thuyết kể: Hai nàng
               với nhiều huyền thoại. Chùa được dựng           theo vua đi kinh lý. Thuyền đỗ ở bờ sông,
               bằng gỗ, ở vị trí chính giữa tòa tam bảo        về đêm trời nổi giông tố, hai nàng bay về
               của  ngôi  chùa  xưa,  kiến  trúc  hình  chữ    trời. Từ đó nơi đỗ thuyền được chọn lập
               nhất (theo chữ Hán) với phong cách kiến         đền thờ.

               trúc cổ Việt Nam, gồm một gian hai chái,            Thần  phả  lễ  hội  đền  Hạ  liên  quan
               mái  lợp  lá  cọ...  Hai  gian  tiền  đường  đặt   đến lễ rước đền Thượng (Tràng Đà) và
               hai pho tượng thờ ở vị trí sát vách. Giữa       đền Ỷ La. Lễ hội đền Hạ vào ngày 12-2
               tiền đường đặt hương án, phía sau là tòa        và tháng 7 (âm lịch). Mở đầu là lễ rước
               tam bảo. Các pho tượng ở đây đều được           Thần đền Thượng và Thần đền Ỷ La về

               tạc bằng gỗ, để mộc, ở tư thế ngồi thiền,       hợp  tế;  ngày  16,  từ  đền  Hạ  rước  hoàn
   994   995   996   997   998   999   1000   1001   1002   1003   1004