Page 1000 - DIA CHI TUYEN QUANG_PHAN DAU
P. 1000

1000    ĐỊA CHÍ TUYÊN QUANG



               cung đền Thượng và đền Ỷ La. Từ hành            trạch trong chum, cờ người, bơi chải, đánh
               trình lễ rước có thể hình dung sự ra đời        đu, vật, chọi gà, ném còn.
               của ba ngôi đền như sau: Đền Hạ được                Đền Hạ là di tích kiến trúc nghệ thuật
               xây trước tiên, thờ cả hai công chúa. Sau       được  xếp  hạng  Di  tích  cấp  Quốc  gia  tại
               xây  đền  Thượng  để  thờ  Phương  Dung         Quyết định số 1009, ngày 26-7-1994 của Bộ
               Công chúa. Gặp thời giặc giã, phải đem          trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin.

               thần chủ đền Hạ chạy loạn. Khi đất nước
               yên bình, rước thần chủ trở về. Tại nơi             7. Chùa Hương Nghiêm
               đền tạm cầu khấn vẫn linh thiêng, vì thế            Chùa  Hương  Nghiêm  (hay  còn  gọi
               lại xây tiếp đền Ỷ La.                          là  chùa  Hang)  ở  dưới  chân  núi  Hương
                   Kiến trúc của đền Hạ theo lối nội công      Nghiêm,  thuộc  xóm  Phúc  Thọ,  xã  An
               ngoại  quốc.  Trước  sân  chầu  là  hệ  thống   Khang,  thành  phố  Tuyên  Quang.  Nhân
               cổng  phụ  có  bốn  trụ.  Trên  mỗi  đỉnh  trụ   dân địa phương quen gọi là chùa Hang,

               gắn  một  con  phượng  đắp  nổi.  Cạnh  sân     do chùa được lập trong một hang động tự
               chầu có hai miếu gọi là lầu cô. Tiếp đến là     nhiên, dưới chân núi đá vôi.
               lầu tế, thờ Đệ nhị Thượng ngàn. Rồi đến             Chùa  Hương  Nghiêm  được  xây
               tam phủ thờ Đệ nhất Thượng ngàn. Gian           dựng vào thời Mạc Thái Tông (Mạc Đăng
               chính  bố  trí  hình  chữ  tam  (≡)  gồm  ba    Doanh), niên hiệu Đại Chính thứ 8 (năm
               cung. Trong cung, trên bệ thờ đặt bộ đỉnh       1537). Chùa được xây dựng từ sáng kiến

               và  treo  chuông,  khánh.  Nghệ  thuật  kiến    của  Hiến  sát  sứ  Ngô  Nghiêm  Khê,  Phó
               trúc nổi bật ở phần chạm khắc gỗ.               Hiến sát sứ Vũ Trạch Xuyên, được hàng
                   Tất cả cột, kèo, thượng lương, cửa võng,    trăm đề lại và dân làng góp công, góp của
               cửa xếp đều được chạm trổ tinh xảo. Đề          xây dựng. Cảnh quan chùa là sự đan quyện
               tài chính là tứ linh (long, ly, quy, phượng),   hài hòa với vị thế, cảnh sắc, môi trường
               tứ quý (tùng, cúc, trúc, mai). Trên thân cột    thiên nhiên xung quanh. Chùa được miêu
               chạm hình long giáng thủy cung. Đặc biệt,       tả:  “với  dòng  Vị  Giang  uốn  quanh  như
               những  hình  cây,  hình  hoa  đục rỗng  trên    rồng trước động. Sau động là đường cái

               cửa võng mềm mại như tranh vẽ. Các pho          quan,  xe  ngựa  tấp  nập.  Phía  tây  là  nha
               tượng thờ có giá trị nghệ thuật rất lớn. Cả     môn Đô đường, nhà xây lớp lớp; phía bắc
               thảy còn lại sáu pho tượng bằng gỗ mít.         là trụ sở Hiến ty, trùng điệp tường vây...” .
                                                                                                         1
               Các pho  tượng  toát  lên  vẻ  than  tao.  Các
               tư thế của tay, các nếp khăn áo đều được            8. Chùa An Vinh
               thể hiện rất sinh động. Hình trang trí trên         Chùa An Vinh có tên chữ là “An Vinh

               chuông,  khánh,  đỉnh  đạt  đỉnh  cao  nghệ     thiền tự” thuộc tổ 7, phường Hưng Thành,
               thuật chạm khắc, quai chuông hình rồng          thành phố Tuyên Quang. Theo tấm bia Tạo
               nón khúc mềm mại.                               tác hưng công bi ký (Bia ghi việc công đức
                   Hằng năm đến trung tuần tháng 2 và          xây  dựng  chùa)  được  tạc  vào  năm  Vĩnh
               tháng  7  (âm  lịch),  người  từ  bốn  phương   Thịnh thứ 16, triều Vua Lê Dụ Tông (năm
               kéo đến hành hương đông như nước chảy.          1720)  thì  chùa An  Vinh  được khởi  dựng
               Hội còn có các trò: Hát đối trống quân, bắt     vào đầu thế kỷ XVIII.



                   1. Hội Khoa học lịch sử Việt Nam: Nhà Mạc và dòng họ Mạc trong lịch sử, Nxb. Văn hoá, Hà Nội, 1996,
               tr.225.
   995   996   997   998   999   1000   1001   1002   1003   1004   1005