Page 938 - DIA CHI TUYEN QUANG_PHAN DAU
P. 938
938 ĐỊA CHÍ TUYÊN QUANG
kinh nghiệm thì hoàng nàn và mã tiền có dịch bệnh (sốt rét kinh niên và tiêu chảy
thể dùng thay thế nhau. Hoàng nàn sống mỗi năm làm chết vài nghìn người). Tháng
(chưa qua bào chế) chỉ dùng ngoài (không 10-1949, Công đoàn y tế tỉnh được thành
được uống), ngâm rượu làm thuốc xoa lập; công đoàn ngành đã đôn đốc đoàn
bóp giảm đau hay tán bột rắc vào chỗ da viên thực hiện các chủ trương của lãnh
bị tổn thương để chữa bệnh phong và các đạo, nên sau năm 1950, mặc dù vẫn còn
bệnh ngoài da khó chữa. Hoàng nàn chế những bệnh chu kỳ làm hàng trăm người
(xếp bảng độc B) là hoàng nàn đã được ốm trong mỗi huyện, như bệnh viêm
bào chế, sao tẩm đúng quy cách dùng để màng não ở Nà Hang từ năm 1950-1951
chữa đau nhức cơ, xương, khớp, phong với 2.300 người mắc bệnh, nhưng số người
thấp, bại liệt, đau bụng, đi ngoài. Từ cây bị tử vong đã giảm nhiều so với trước (có
mã tiền còn chiết được chất strychnin, một 50 người chết).
loại hoạt chất quý dùng để chữa tim giãn, Ngày 31-7-1952, Bộ trưởng Bộ Y tế
cơ tim mệt, đái dầm... ban hành Thông tư số 11-ZYO/TT3 về
Mặt khác, ngành y tế Tuyên Quang tổ việc chấn chỉnh tổ chức ngành y tế. Ở cấp
chức các trạm cứu thương, phục vụ các Trung ương do Bộ Y tế quản lý; cấp địa
mặt trận sông Lô, Nghĩa Lộ, Tây Bắc, Điện phương do các khu, sở, ty, phòng, ban y tế
Biên Phủ, vì vậy sức khỏe dân công được quản lý, tương đương với các cấp quản lý
bảo đảm; hoàn thành tốt nhiệm vụ phục hành chính khu (liên khu), tỉnh, huyện, xã.
vụ chiến trường. Chính quyền tỉnh từng bước quan tâm
Từ năm 1948, tại Tuyên Quang, hầu hết đến việc chăm sóc sức khỏe cho nhân dân
các xã đều lập trạm y tế hoặc túi thuốc chữa cũng như công tác y tế và vệ sinh nông
thôn. Bên cạnh việc củng cố, xây dựng các
bệnh. Nhân dân vùng sâu, vùng xa bắt đầu bệnh viện, trạm xá, bệnh xá... tỉnh còn đào
làm các công trình phụ xa nhà, bước đầu tạo cán bộ y tế xã, phát triển các túi thuốc
hạn chế được bệnh phong và sốt rét... Tuy cơ sở. Đến tháng 6-1953, số cơ sở y tế nhân
vậy, mạng lưới y tế của tỉnh còn rất mỏng, dân đã có ở Yên Bình (10/17 xã), Yên Sơn
chưa đáp ứng được yêu cầu cho nhân dân. (11/20 xã), Hàm Yên (6/13 xã), Nà Hang
Năm 1948, toàn tỉnh mới chỉ có 13 trạm phát (9/10 xã). Toàn tỉnh đã có 55/100 xã có cơ
thuốc, ba nhà hộ sinh và một bệnh viện. sở y tế.
Bệnh đậu mùa có từ trước Cách mạng Về công tác vệ sinh phòng bệnh, năm
Tháng Tám, còn rớt lại, âm ỉ, lác đác trong 1954 toàn tỉnh đã chủng đậu được cho
nhân dân; tới năm 1949, bùng phát ra từ 49.007 người (khoảng 1/3 dân số). Một số
xã Phù Loan, huyện Hàm Yên và một số bệnh dịch như sởi, đậu mùa phát sinh lẻ tẻ
xã ở huyện Nà Hang với 10 người mắc ở một số xã đã được dập tắt kịp thời. Các
bệnh. Y tá xã, y tá huyện, tỉnh đã tập trung tủ thuốc cũng được phát triển thêm. Đa số
đến ngăn ngừa, sau hai tháng thì dập tắt nhân dân đã quen dùng thuốc chữa bệnh
được dịch. Năm 1950, người được chủng thay cho việc mời thầy mo cúng bái. Chính
đậu cũng nhiều lên, khoảng 30.000 người; quyền tỉnh cũng đã có chủ trương giải
năm 1952-1953, khoảng 50.000 người được quyết những bệnh nan y như lao, phong.
chủng đậu (chiếm 50% dân số), không có Tỉnh đã lập trại phong ở Cầu La (Hàm
người bị tử vong vì bệnh đậu mùa. Yên), ban đầu có hơn một chục bệnh nhân.
Các bệnh dịch chu kỳ hằng năm, từ Ở vùng nông thôn, việc tuyên truyền vệ
năm 1950 trở về trước thường bùng phát sinh, phòng bệnh, thực hiện nếp sống mới