Page 909 - DIA CHI TUYEN QUANG_PHAN DAU
P. 909
Phêìn thûá tû: KINH TÏË - XAÄ HÖÅI 909
“Tuần lễ vàng”, “Quỹ độc lập”, phong chung của tỉnh, tạo điều kiện để đóng góp
trào: “Bình dân học vụ” cũng được phát nhiều hơn cho công cuộc kháng chiến,
động và hưởng ứng mạnh mẽ. Các lớp xoá kiến quốc của dân tộc.
nạn mù chữ không chỉ lan rộng ở vùng Từ năm 1950 đến năm 1952, tỉnh
thấp, trong đồng bào Kinh, Tày, mà còn đi Tuyên Quang đạt được nhiều thành tích
sâu vào vùng cao, vùng xa, trong các dân lớn: Năm 1950, toàn tỉnh có hơn 80.000
tộc thiểu số ở Tuyên Quang. người thoát nạn mù chữ. Tỉnh cũng thanh
Từ năm 1946 đến cuối năm 1949, toàn toán xong nạn mù chữ ở hai huyện Yên
tỉnh đã có 72 trường tiểu học với 94 giáo Bình và Sơn Dương. Đặc biệt huyện Sơn
viên và 3.883 học sinh. Đặc biệt, từ tháng Dương là huyện đầu tiên trong toàn quốc
1 đến tháng 10-1949, Tuyên Quang đã xoá đã thanh toán xong nạn mù chữ và được
mù chữ cho 3.378 người và có 14.065 người Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen ngợi.
đang theo học bình dân học vụ; thanh toán Năm 1952, toàn tỉnh có hai trường
nạn mù chữ ở 50 thôn và 3 xã: Ỷ La (Yên phổ thông cấp II với 24 giáo viên, 1.016
Sơn), Bình Lục (Yên Bình), Tam Đa (Sơn học sinh và 94 trường phổ thông cấp I với
Dương); đào tạo được 61 giáo viên bình 119 giáo viên, 7.776 học sinh, trong đó có
dân học vụ, 427 cán bộ xoá mù chữ; mở 2.758 học sinh là người dân tộc thiểu số.
18 lớp xoá mù chữ cho đồng bào Dao ở Tỉnh còn có 675 học sinh cấp I và cấp II
các huyện Nà Hang, Sơn Dương, Hàm theo học các trường tư thục. Ở nông thôn,
Yên. Ngoài ra tỉnh còn xây dựng được một các lớp cấp I được nhân rộng. Một số địa
trường trung học với 126 học sinh. phương đã mở được trường cấp II như
Đánh giá chung về công tác văn hoá, xã An Lạc (Chiêm Hoá), Chân Sơn (Yên
giáo dục thời gian này, Hội nghị Đại biểu Sơn). Trường cấp III đã có một lớp 8 với
Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang lần thứ tư 57 học sinh.
(tháng 6-1949) đã chỉ rõ: “Tuy còn một Cũng trong năm 1952, tỉnh mở 10 lớp
số nhược điểm là nhà trường phân phối đào tạo giáo viên sơ cấp, giảng viên xung
không đều, không sát với thực tế, thiếu phong và giảng viên dự bị với 178 học
giáo viên, sách vở, nhất là sách giáo viên. Toàn tỉnh mở được 20 lớp xoá mù
khoa và tài liệu bằng tiếng địa phương... chữ, củng cố 33 lớp dự bị bổ túc, một lớp
nhưng phải thấy rõ rằng phong trào học văn hoá cho cán bộ xã, 4 lớp bổ túc văn hoá
tập của quần chúng rất cao: “Người nào tại 4 xí nghiệp, thanh toán nạn mù chữ cho
cũng muốn học, cán bộ muốn học, quần 4.616 người. Việc xoá nạn mù chữ cho cán
chúng muốn học, người thợ muốn học, cả bộ xã phát triển mạnh.
đến đồng bào (dân tộc thiểu số) cũng đi Năm 1954, tỉnh đào tạo được 732 giáo
học; các sách vở chỉ lưu hành ở thành thị viên, trong đó có một số giáo viên là người
trước đây đã thâm nhập cả vào thôn quê, miền núi, cung cấp đủ tài liệu cho giáo
báo chí xuất bản ngày một nhiều nhưng viên và sách văn quốc ngữ cho cán bộ xã.
vẫn chưa đáp ứng kịp với sự đòi hỏi của Như vậy, tính đến năm 1954, toàn tỉnh
nhân dân”. có 110 trường phổ thông gồm 403 lớp, 264
Cùng với công tác củng cố chính trị, giáo viên, 10.716 học sinh (so với thời Pháp
phát triển kinh tế, kết quả đạt được trong thuộc và Nhật, tăng 17 lần).
lĩnh vực văn hoá - xã hội đã góp phần tạo Cùng với việc nâng cao chất lượng giáo
nên những chuyển biến sâu sắc tình hình dục, tỉnh còn chú trọng giáo dục chính trị