Page 904 - DIA CHI TUYEN QUANG_PHAN DAU
P. 904

Chương XII


                                       GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO






               I- GIÁO DỤC TUYÊN QUaNG THỜI PHONG              đứng đầu Ngự sử đài, là một chức quan
               KIẾN (TRƯỚC NĂM 1884)                           rất trọng thời phong kiến.
                                                                   Khi  triều  Nguyễn  thiết  lập,  đối  với
                   Theo Minh Thực Lục, năm Vĩnh Lạc
               thứ 17 (năm 1419), nhà Minh “Thiết lập          người dân ở các tỉnh xa kinh đô, đặc biệt
               tại Giao Chỉ: Phủ Nho học tại Lạng Sơn;         là các tỉnh biên giới phía bắc, nhà Nguyễn

               10 châu Nho học tại Thất Nguyên, Quảng          cũng rất quan tâm vỗ về, phủ dụ, nhất là
               Nguyên, Thượng Văn, Hạ Văn, Vạn Nhai,           sau những cuộc nổi dậy của Dương Đình
               Thượng Tư Lang, Hạ Tư Lang, Cửu Chân,           Cúc, Nông Văn Vân... Theo sách Đại Nam
               Gia Hưng, Quảng Oai; 17 huyện Nho học           nhất  thống  chí  của  Quốc  sử  quán  triều
               tại  Đa  Dực,  Cổ  Lan,  Khâu  ôn,  Trấn  Di,   Nguyễn, xuất bản năm 1992 thì tại Tuyên
                                                                                              5
               Đan  Ba,  Thoát,  Uyên,  Đại  Man,  Tuyên       Quang vào năm ất Dậu (1825)  vua Minh
               Hóa ,  Phú  Lương,  Lộng  Thạch,  Đại  Từ,      Mạng đã cho xây dựng Văn Miếu tại xã Ỷ
                    1
               Cảm  Hóa,  Vĩnh  Ninh,  Tống  Giang,  Nga       La, huyện Hàm Yên, Phủ Yên Bình. Văn
               Lạc, An Lạc” . Như vậy, ở Tuyên Quang           Miếu ở xã Ỷ La thờ Khổng Tử, ông tổ của
                             2
               từ thế kỷ XV đã có trường dạy chữ Nho           đạo Nho và vì thế đây là nơi tôn vinh những
               ở huyện.                                        giá trị của nền giáo dục Nho học. Bên cạnh
                   Về  khoa  cử,  theo  sách  Các  nhà  khoa   Văn Miếu nhà vua còn cho xây đền Khải
               bảng Việt Nam (1075-1919) , đời Lê Thánh        Thánh ở phía Tây để thờ cha mẹ Khổng
                                          3
               Tông  (thế  kỷ  XV)  có  ông  Tạ  Thông  ở  xã   Tử (tức là Thúc Lương Ngột và Nhan Thị).
               Yên  Hưng ,  huyện  Sùng  Yên  (nay  thuộc      Tuy  gọi  là  đền  Khải  Thánh,  nhưng  bên
                          4
               huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang) nổi            cạnh việc thờ cúng, đây còn là nơi rèn đúc
               tiếng thần đồng, thi đình đỗ Tiến sĩ khoa       nhân tài cho địa phương.
               ất Mùi niên hiệu Hồng Đức thứ 6 (năm                Từ việc xây dựng Văn Miếu có thể thấy
               1475),  làm  quan  đến  chức  Đô  Ngự  sử       đất  Tuyên  Quang  xưa  vào  triều  Nguyễn





                   1. Tuyên Hóa: Tức Tuyên Quang, tên gọi thời kỳ thuộc nhà Minh (Trung Quốc).
                   2. Minh Thực Lục, Quan hệ Trung Quốc - Việt Nam thế kỷ XIV- XVII, Nxb. Hà Nội, Hà Nội, 2010, t.2,
               tr.62-63.
                   3. Xem Ngô Đức Thọ (Chủ biên): Các nhà khoa bảng Việt Nam (1075-1919), Nxb. Văn học, Hà Nội,
               2006, tr.132.
                   4. Xã Yên Hưng sau đổi là xã Hành Mai, nay là xã Đại Phú, huyện Hàm Yên.
                   5. Xem Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam nhất thống chí, Nxb. Thuận Hoá, Huế, 1992, t.IV, tr.357.
   899   900   901   902   903   904   905   906   907   908   909