Page 694 - DIA CHI TUYEN QUANG_PHAN DAU
P. 694
694 ĐỊA CHÍ TUYÊN QUANG
trong ba năm (1966-1968), tăng 21,49% so Với đà phát triển của những năm 1972-
với 5 năm trước (1961-1965). Trong hai 1973, đồng thời với việc tăng cường mở
năm (1966-1967), đã đầu tư mới và mở rộng các cơ sở sản xuất tư liệu sản xuất,
rộng 30 cơ sở sản xuất công nghiệp, như: hàng tiêu dùng, các cơ sở chế biến giấy,
Mỏ than Linh Đức (Chiêm Hoá), cơ khí Nà chè...; tăng năng lực chế biến lương thực,
Hang, cơ khí Sơn Dương, xí nghiệp nước thực phẩm lên gấp hai lần so với trước, nên
chấm, lò gốm Chiêm Hoá, xí nghiệp gạch, trong năm 1974, hầu hết các xí nghiệp của
cơ sở sản xuất giấy, xưởng sửa chữa ô tô, tỉnh đều đạt và vượt mức kế hoạch; giá trị
xưởng đóng thuyền, phà công suất 500 tổng sản lượng công nghiệp đạt 101,3% kế
tấn/năm... góp phần quan trọng giải quyết hoạch (tăng 7,2% so với năm 1973). So với
hậu cần tại chỗ. kế hoạch năm 1974, các sản phẩm chủ yếu
Năm 1967, tại các xã trọng điểm lúa đều tăng, như: sản phẩm điện tăng 40%,
đã có 18 lò rèn, 32 lò gạch, 41 lò vôi; đến sửa chữa ô tô tăng 24%, giấy tăng 3,3%,
năm 1968, đã xây dựng hoàn chỉnh hơn bột kẽm tăng 2,58%, đồ gốm tăng 2,1%,...
30 điểm cơ khí nhỏ ở nông thôn. Công Năm 1975, ngành công nghiệp và
nghiệp đã hướng vào nông nghiệp, quốc thủ công nghiệp của tỉnh đã hoàn thành
phòng, công nghiệp Trung ương và đời những mục tiêu, nhiệm vụ đề ra. Các xí
sống nhân dân . nghiệp điện, giấy, bột kẽm, đường, rượu,
1
Thực hiện Nghị quyết của Đảng bộ cơ khí, nông cụ, vật liệu xây dựng... đã
tỉnh, ngành công nghiệp chế tạo và sửa phát huy tốt vai trò nòng cốt trong sản
chữa cơ khí đã mở rộng sản xuất; trong xuất công nghiệp.
hai năm (1969-1970), giá trị tổng sản lượng
công nghiệp đạt 81,18%, thủ công nghiệp 3. Thời kỳ 1976-1990
đạt 101%; xây được 286 lò rèn, lò gạch, lò Sau khi hợp nhất hai tỉnh Hà Giang và
ngói, lò vôi. Tuyên Quang thành tỉnh Hà Tuyên, ngành
Từ năm 1971 đến năm 1975, tỉnh đã công nghiệp và thủ công nghiệp của hai
nâng mức đầu tư đáng kể cho phát triển tỉnh cũng được hợp nhất. Với tiềm năng
sản xuất công nghiệp và thủ công nghiệp kinh tế nông - lâm nghiệp tương đối lớn,
nhằm củng cố một bước mạng lưới công nguồn tài nguyên, khoáng sản khá phong
nghiệp địa phương, chuyển hướng sản phú, nguồn lao động dồi dào, công nghiệp
xuất phù hợp với điều kiện thời chiến, đáp và thủ công nghiệp Hà Tuyên có điều kiện
ứng yêu cầu của sản xuất nông nghiệp, thuận lợi để mở rộng và phát triển các
phục vụ đời sống nhân dân và xây dựng ngành nghề.
cơ bản. Năm 1972, giá trị tổng sản lượng 1- Chủ trương của tỉnh
công nghiệp tuy không đạt kế hoạch, song Quán triệt tinh thần Nghị quyết Hội
vẫn tăng 9% so với năm 1971; ngành công nghị lần thứ sáu, Ban Chấp hành Trung
nghiệp bước đầu kinh doanh có lãi. ương Đảng (khoá IV), căn cứ vào tình hình
1. Theo Báo cáo của ngành công nghiệp Tuyên Quang, năm 1968, trong giá trị tổng sản lượng công
nghiệp và thủ công nghiệp, sản phẩm phục vụ công nghiệp chiếm 44,82%, phục vụ quốc phòng và tiêu
dùng chiếm 35,07%; phục vụ xây dựng cơ bản chiếm 13,8%; phục vụ sản xuất nông nghiệp chiếm 5,14%;
còn lại phục vụ xuất khẩu và giao thông vận tải (Xem Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang: Lịch
sử Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang (1940-1975), Sđd, tr.390).