Page 689 - DIA CHI TUYEN QUANG_PHAN DAU
P. 689
Phêìn thûá tû: KINH TÏË - XAÄ HÖÅI 689
kim loại ở toàn Đông Dương tăng theo ảnh hưởng chiến tranh, đảm bảo guồng
từng năm: Năm 1907 có 469 giấy phép, máy kinh tế thuộc địa chạy đều. Các phân
năm 1908 có 664 giấy phép, năm 1909: xưởng chế biến gỗ được mở rộng; Công ty
859 giấy phép, năm 1910: 1.251 giấy phép, Viễn Đông Hải Phòng đã dựng thêm lò cao
năm 1911: 2.370 giấy phép, năm 1912: để luyện thiếc. Trong ngành khai thác mỏ,
3.070 giấy phép (so với năm 1907 tăng gấp việc khai thác than, thiếc được chú trọng.
7 lần). Riêng tổng sản lượng than khai thác Riêng ở Tuyên Quang, thực dân Pháp đã
năm 1903 là 285.915 tấn, năm 1912: 415.000 bỏ thêm vốn khai thác mỏ than Tràng Đà,
tấn, năm 1913: 500.000 tấn . Ngoài than, lập Công ty Than Tuyên Quang (1915);
1
nhiều mỏ kim loại cũng được khai thác, bên cạnh đó, còn đẩy mạnh khai thác
trong đó có hệ thống các mỏ đồng, thiếc, thiếc, đồng, vôn fram, tungxten ở Tuyên
kẽm ở Tuyên Quang. Quang, Cao Bằng; mỏ sắt ở Na Lương, Cù
Sau công nghiệp khai thác than và Vân (Thái Nguyên), v.v.. . Cho đến trước
2
khoáng sản là các ngành: xi măng, vải, sợi, Chiến tranh thế giới thứ hai, việc khai thác
gạch, ngói, điện, nước, chế biến nông, lâm các mỏ kim loại ở Tuyên Quang vẫn được
sản (như chế biến gỗ, sản xuất giấy, thuốc tư bản Pháp chú trọng, đặc biệt là các mỏ
lá,...). Phương thức hoạt động của tư bản đồng, thiếc và than.
Pháp ở toàn cõi Đông Dương, Bắc Kỳ nói Từ năm 1905, thực dân Pháp bắt đầu
chung, các địa phương ở vùng miền núi khai thác mỏ kẽm ở Tràng Đà (thị xã Tuyên
phía Bắc, trong đó có Tuyên Quang nói Quang), Đầm Hồng (Chiêm Hoá); năm
riêng, là tận dụng nguồn nguyên liệu tại 1915, khai thác mỏ than Tuyên Quang.
chỗ và nguồn nhân công rẻ mạt, sử dụng Mỗi năm, thực dân Pháp khai thác 12.000
tối đa lao động thủ công, kết hợp lao động tấn kẽm, 25.000 tấn than. Riêng năm 1929,
thủ công với lao động cơ giới ở những mỏ thực dân Pháp khai thác 26.271 tấn than,
có quy mô lớn, nhằm thu được lợi nhuận với số lãi là 610.803,24 phrăng, chưa kể lãi
cao nhất . Với cách thức này, cho đến trước suất trong việc khai thác hàng nghìn tấn
1
Chiến tranh thế giới thứ nhất, về công kẽm/năm . Với tốc độ khai thác như vậy,
3
nghiệp, kinh tế Việt Nam phụ thuộc hoàn nguồn khoáng sản của Tuyên Quang cũng
toàn vào kinh tế Pháp. Khi chiến tranh như của toàn vùng miền núi phía Bắc
bùng nổ, công nghiệp Việt Nam lâm vào dường như đã bị thực dân Pháp khai thác
tình trạng sút kém trầm trọng, chính quyền kiệt quệ, không hiếm mỏ đã bị vơ vét sạch
1
Đông Dương buộc phải điều chỉnh chính trơn , trong đó nhiều mỏ nằm sâu trong
sách khai thác thuộc địa, nhằm giảm bớt đất Trung Quốc, hậu quả của việc thoả
1. Tài liệu cũ cho biết, tại các mỏ, công nhân phải sống trong những túp lều tre, nứa xiêu vẹo, dột
nát; công cụ lao động chủ yếu là dụng cụ cầm tay, hầu hết không có bảo hiểm. Công nhân phải làm việc
quần quật dưới các hầm lò ẩm ướt, đầy khí độc hại từ 10 - 12 giờ một ngày, không có ngày chủ nhật, đau
ốm phải nghỉ không được chăm sóc, đồng lương rất thấp (0,3 đồng - 0,6 đồng/ngày) và còn phải chi trả
nhiều khoản như tiền thuê nhà, tiền nước,… Ở nhiều lò công nhân đã bỏ mạng do nổ gas (lò Cai Bộc: 6
người chết do nổ gas, lò Cai Lượng có 2 người chết, 25 người bị thương,…).
2. Xem Đinh Xuân Lâm (Chủ biên): Đại cương lịch sử Việt Nam, Sđd, t.II, tr.186.
3. Xem Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang (1940-1975),
Sđd, tr.30.