Page 690 - DIA CHI TUYEN QUANG_PHAN DAU
P. 690

690     ĐỊA CHÍ TUYÊN QUANG



               thuận giữa nhà Thanh (Trung Quốc) với           thủ công nghiệp, bên cạnh việc đẩy mạnh
               thực dân Pháp trong việc xác lập đường          hoạt động xây dựng cơ bản, giao thông,
               biên giới Việt - Trung trên bộ (1895).          vận tải, bưu điện, phân phối lưu thông...”
                   Phần lớn số than và khoáng sản khai         Đại hội đặt ra một số chỉ tiêu kinh tế chủ
               thác ở Việt Nam được thực dân Pháp đem          yếu của năm 1961, trong đó, giá trị tổng

               bán cho một số nước ở Viễn Đông, như:           sản lượng công nghiệp và thủ công nghiệp
               Nhật  Bản,  Trung  Quốc;  một  phần  đưa        tăng 26,4% so với năm 1960. Trong Báo cáo
               sang  Pháp,  phần  còn  lại  dùng  cho  công    về tình hình kinh tế - xã hội hai năm (1961-
               nghiệp Pháp ở Việt Nam.                         1962), Đề án phương hướng, nhiệm vụ, kế
                                                               hoạch 5 năm (chủ yếu là 3 năm (1963-1965))
                   2. Thời kỳ 1945-1975                        của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Tuyên

                   1. Chủ trương của tỉnh                      Quang (khoá III) trình Đại hội IV Đảng bộ
                   Trong  kháng  chiến  chống  thực  dân       tỉnh, đã nhấn mạnh một số chỉ tiêu cụ thể
               Pháp, nhiệm vụ chủ yếu xuyên suốt của           về sản xuất công nghiệp là: Phấn đấu tới
               Tuyên  Quang  là  xây  dựng  hậu  phương        năm 1965, ngành cơ khí căn bản sản xuất
               vững mạnh về mọi mặt, đặc biệt là xây           đủ nông cụ thường, nông cụ cải tiến; cung

               dựng  nền  kinh  tế  kháng  chiến.  Báo  cáo    cấp đủ các phụ tùng chủ yếu cần thiết cho
               về  “Tình  hình  công  tác  năm  1952  của      các loại chế biến, vận chuyển thô sơ, cải
               Tuyên Quang”, Tỉnh uỷ cũng nhấn mạnh:           tiến...; khai thác 85.000-105.000 m  gỗ tròn;
                                                                                                 3
               “Tuyên  Quang  là  một  tỉnh  tự  do,  nên      phát triển tốt các ngành khai thác, chế biến
               đặt  công  tác  kinh  tế,  tài  chính  lên  hàng   quặng, điện lực, vật liệu xây dựng, công
               đầu, còn mọi mặt công tác song song tiến        nghiệp thực phẩm và sản xuất hàng tiêu

               hành” . Trên tinh thần đó, Tuyên Quang          dùng. Đề án cũng nêu rõ, trong xây dựng
                      2
               đẩy mạnh phát triển công nghiệp và thủ          và phát triển công nghiệp và tiểu thủ công
               công nghiệp.                                    nghiệp, cần phải theo phương châm dựa
                   Sau khi thực hiện thắng lợi nhiệm vụ        vào  nguyên  liệu,  sức  tiêu  thụ  tại  chỗ  là

               khôi  phục  và  cải  tạo  kinh  tế  xã  hội  chủ   chính, có quy mô và thiết bị hợp lý để cung
               nghĩa, Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng         cấp tư liệu sản xuất cho nông nghiệp, các
               bộ tỉnh Tuyên Quang lần thứ III (vòng 2,        ngành kinh tế khác; đáp ứng nhu cầu tiêu
               tháng  3-1961)  đã  nêu  rõ,  một  trong  bảy   dùng của nhân dân, phục vụ công nghiệp
               nhiệm vụ lớn của năm 1961, đối với ngành        Trung ương và xuất khẩu. Biện pháp thực
               công  nghiệp  tỉnh  Tuyên  Quang  là:  “đẩy     hiện là: “tích cực củng cố, xây dựng các

               mạnh sản xuất công nghiệp quốc doanh và         cơ sở sản xuất; tăng mức đầu tư, đào tạo




                   1. Số mỏ thiếc, đồng, vàng… ở các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Tuyên Quang, Sơn La, Thái Nguyên bị
               thực dân Pháp khai thác mạnh qua hai cuộc khai thác thuộc địa, gồm: mỏ thiếc ở Tĩnh Túc (Cao Bằng),
               Sơn Dương (Tuyên Quang); mỏ kẽm ở Tràng Đà, Làng Hích, Chợ Đồn, Yên Bình thuộc các tỉnh Bắc Kạn,
               Tuyên Quang, Thái Nguyên; mỏ đồng ở Vạn Sài (Sơn La), ở Tụ Long (Tuyên Quang); mỏ vàng ở Bảo Lộ
               (Cao Bằng), Bồng Miêu (Quảng Nam),… Trong số các mỏ vàng, thì mỏ vàng ở Bồng Miêu là quan trọng,
               từ năm 1895 đến năm 1914, mỗi năm sản xuất được khoảng trên 100kg vàng; còn đứng đầu sản lượng
               khai thác đồng vẫn thuộc về các mỏ đồng ở Tuyên Quang.
                   2. Nghị quyết về nhiệm vụ xây dựng kinh tế - tài chính của tỉnh Tuyên Quang, Đệ nhị lục cá nguyệt, 1949
               (Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang (1940-1975), Sđd, tr.195).
   685   686   687   688   689   690   691   692   693   694   695