Page 293 - DIA CHI TUYEN QUANG_PHAN DAU
P. 293
293
Phêìn thûá hai: DÊN CÛ - DÊN TÖÅC
Nhà thường là ba gian hai chái, dưới công việc bếp núc. Khi có lý do đặc biệt
chân có chạy ngạch cao khoảng 60 cm. thì người chồng có thể làm thay; phụ nữ
Ngôi nhà được làm theo kiểu truyền chuẩn bị đồ ăn, dọn dẹp, rửa bát đũa. Khi
thống, gồm hai mái chính và một mái hiên ăn, bao giờ cũng chia làm hai mâm và có
phụ, có 8 cột cái, 12 cột quân và 4 cột hiên. sự phân biệt mâm trên, mâm dưới; mâm
Kết cấu theo kiểu chồng bồn kẻ nghé, có trên chỉ có người già, nam giới; mâm dưới
thượng lương, câu đầu, quá giang... Trên dành cho phụ nữ và trẻ em.
các vì kèo có chạm khắc hình rồng, phượng Các món ăn vào dịp lễ, tết và khi có
và viết chữ nho, kiến trúc ảnh hưởng của đám phổ biến là thịt gà luộc, thịt lợn làm
người Kinh. giò chả, nấu giềng mẻ, nấu chuối, nấu khế,
Nhà thường có một cửa chính và hai canh măng khô, măng chua và các loại rau.
cửa phụ hai bên. Theo họ, phụ nữ thường Thịt, cá ướp thính, muối chua, thịt sấy... là
đi cửa phụ ở hai bên, nam giới đi cửa những món ăn đặc sắc của người Sán Dìu.
chính. Mái nhà được lợp bằng cỏ tranh Thịt thính: thịt lợn chọn miếng khổ
hoặc lá cọ, sau này lợp bằng ngói. Trong dày, đem ướp muối để 2 - 3 ngày, sau đó
nhà, bàn thờ tổ tiên được đặt ở gian giữa, rửa sạch bằng nước nóng, để ráo, ướp
hai gian hai bên để kê giường ngủ. Các với muối trộn thính (gạo rang vàng xay
gian buồng được ngăn với gian ngoài bằng nhỏ) rồi xếp từng lượt vào hũ, ang trên
vách liếp tre đan và không chạy ngạch. cùng đậy bằng lá ổi. Miệng hũ được bịt
Gian ngoài, thường dành cho cụ già và kín rồi dốc ngược lên cho chảy hết nước.
nam giới; nữ giới và đôi vợ chồng thường Thịt thính có thể để được từ 6 tháng đến
ở trong buồng, một bên buồng thường để 2 năm, để lâu thành thịt chua, người ta có
làm gian chứa đồ. thể ăn sống được. Món cá thính cũng làm
như thịt thính.
8. Ẩm thực Thịt mỡ muối: Những khổ thịt mỡ
Người Sán Dìu ăn cơm tẻ và cháo. được rạch ra từng thỏi bằng 2 - 3 đốt ngón
Trên bếp, đặc biệt là vào mùa hè, thường tay (nhưng phần da vẫn liền với nhau), rửa
có nồi cháo loãng để mọi người trong gia sạch, để ráo nước rồi sát muối và rượu, lấy
đình uống thay nước. Người ta ăn hai lá tranh khô gói lại rồi treo nơi khô thoáng,
bữa chính trong ngày vào trưa và tối, có có thể để quanh năm.
bữa phụ vào buổi sáng, đầu buổi chiều Thịt nạc được thái thành từng khổ nhỏ,
hoặc đêm. rán chín rồi ngâm trong mỡ nước cũng để
Trước kia, bữa ăn hằng ngày thường được lâu mà vẫn thơm ngon.
đạm bạc, chỉ có cơm (độn ngô, sắn khi thiếu Thịt trâu, bò, thú rừng được để dành
đói) và rau, thỉnh thoảng mới có thịt, cá. bằng cách phơi khô rồi sấy trên gác bếp,
Gia vị chủ yếu là gừng, giềng, ớt, hạt dổi... khi ăn đem ngâm nước nóng cho thịt mềm
Vị trí ngồi ăn cơm tùy theo từng mùa ra rồi thái mỏng nấu với khế, măng chua
và từng nhà, nhưng mọi người thường hoặc mẻ.
ngồi ăn ở dưới bếp. Nếu có khách thì chủ Người Sán Dìu cũng làm xôi ngũ
nhà có thể mời ngồi ở gian ngoài nhà chính, sắc trong các ngày lễ, tết; riêng xôi đen
cạnh gian giữa có bàn thờ. Mâm được làm dùng trong nghi thức tạ mộ vào tháng
bằng gỗ, có chân chắc chắn. Trong nhà, 3, ngày Thanh minh. Ngoài bánh chưng
người phụ nữ bao giờ cũng đảm nhận gù, đồng bào cũng làm bánh nẳng.