Page 1105 - DIA CHI TUYEN QUANG_PHAN DAU
P. 1105

1105
                                                                        Phêìn thûá nùm: VÙN HOÁA


               Văn hóa Tuyên Quang), Báo Tuyên Quang,          Hoài niệm mái tóc; Vũ Xuân Tửu với Người
               Tập san Văn nghệ Hà Tuyên, Báo Văn nghệ         đàn  bà  vẽ,  Khăn  hồng  buông  lơi;  Nguyễn
               Hà Tuyên (sau là Báo Tân Trào), Văn hóa         Tuấn với Mẹ tôi, Phố Chinh, Đêm mưa ở bản
               đời  sống  (thuộc  Sở  Văn  hóa  -  Thông  tin   Nà  Khiềng,  Một  miền  yêu;  Nguyễn  Bình
               Hà Tuyên). Có thể nhắc tới các tập sách in      với Dân ca quê mình, Thân rạ, Dòng Lô tình
               chung thơ của nhiều tác giả như: Đường         yêu muôn thuở; Nguyễn Thị Kim Thu với

               qua  kỷ  niệm  (1975),  Thơ  Hà  Tuyên  (1982),   Những  bông  hồng  không  gai,  Một  lần  nghe
               Cực Bắc chiến hào (1984), Tân Trào (1985).      anh kể; Vũ Tuấn với Biến ảo, Yêu hai người
               Lực lượng sáng tác tăng lên đáng kể, đặc        một lần, Tìm, Bất chợt Nà Hang; Đinh Công
               biệt là sự đóng góp của các tác giả người       Thủy với Khúc tự sự, Thơ viết dọc đường đi,
               dân tộc thiểu số. Âm hưởng chủ đạo trong        Ý nghĩ bàn chân; Huy Hảo với Cây đa bãi sỏi;
               thơ về Tuyên Quang là tinh thần chiến đấu       Phùng Đức Thuấn với Thượng nguồn sông
               ngoan cường, khát vọng hòa bình; tình yêu       Lô, Chiều trên chốt...
               quê hương, đất nước; tình bạn, tình yêu             Mười  năm  sau  ngày  thống  nhất  đất

               đôi lứa... Cảm hứng thơ chân thành, trong       nước, văn học Tuyên Quang bước vào một
               sáng và thấm đượm chất anh hùng ca.             hành trình mới. Một bộ phận vẫn tiếp tục
                   Bước vào thời kỳ đổi mới (từ 1986 đến       dòng cảm hứng đấu tranh cách mạng của
               nay), thơ ca Tuyên Quang xuất hiện nhiều        thơ  ca  thời  chống  Mỹ,  cứu  nước;  một  bộ
               tác giả và tác phẩm: Trần Hoài Quang với        phận hướng tới cuộc sống đa chiều, đa âm
               Chiều  Tuyên  Quang,  Ngày  xuân  cảm  tác,    sắc đang thay đổi từng ngày; một bộ phận

               Vắng, Với bạn; Gia Dũng với Đò đêm, Hoa         kết hợp hài hòa cảm hứng anh hùng ca và
               vàng  ngõ  vắng,  Chiều  bên  sông  Mátxcơva,   thế thái nhân tình. Tất cả tạo nên một diện
               Cánh cửa khép hờ; Cao Xuân Thái với Sóng      mạo và sức sống mới cho văn học Tuyên
               thượng nguồn, Hoa mười giờ, Trước đá, Tổ      Quang. Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần
               quốc nơi cực bắc; Đoàn Thị Ký với Cô gái        thứ VI, đời sống văn hóa, văn nghệ Tuyên
               và cầu vồng, Nửa vòng bông gạo, Ngọn đèn       Quang chuyển nhanh theo trào lưu đổi mới.
               mẹ  gửi,  Cố  hương;  Nguyễn  Trọng  Hùng      Kết quả là đã xuất hiện nhiều tuyển tập thơ
               với  Ngày  mai  xa,  Dấu  tích,  Có  người  xóm   như: Thơ Hà Tuyên (1990), Thơ Tuyên Quang

               ấy; Trần Khoái với Là em, Về Tuyên, Mảnh       (1988 - 1992), Đường mùa xuân (1996), Thơ
               đất của trường ca, Chìm nổi làng quê; Hà Thị   văn  Tuyên  Quang  (1999  -  2004),  Hai  mươi
               Khiết với Bình Ca bến nhớ, Ước vọng rừng        năm văn học Tuyên Quang (2006).
               xanh; Thái Thành Vân với Nguyễn Khuyến              Tập Thơ văn Tuyên Quang (1999 - 2004)
               về quê, Lời đêm, Êm đềm, Ngàn sau; Mai Liễu   gồm 23 tác giả, tuyển thêm 45 bài để bổ
               với Suối làng, Mây vẫn bay về núi, Lời then ai   sung  tác  giả,  tác  phẩm  cho  hai  tập  thơ

               buộc, Giấc mơ của núi, Đầu nguồn mây trắng,     trước,  cảm  xúc  trữ  tình  lắng  đọng  hơn
               Bếp lửa nhà sàn; Lê Na với Người âm lịch,     về tình yêu và hoài niệm, những tinh hoa
               Thằng  bù  nhìn  trên  nương  người  Dao,  Viết   truyền  thống  quê  hương,  những  ký  ức
               bên bờ sông Đáy; Trần Mạnh Tiến với Buổi       không phai mờ của đời người. Hai mươi
               sáng  trong  làng  Dao,  Tiếng  chim  chiều,  Em   năm văn học Tuyên Quang (2006) là tuyển
               tìm hoa trong em; Hà Phan với Mùa xuân đầy      tập ghi lại chặng đường đổi mới của văn
               những hẹn hò, Nghẽn lối thơ; Ngọc Hiệp với      học Tuyên Quang ở hai thể loại thơ và văn
               Lời ru giăng mắc, Nhớ, Sông Đáy, Gió, Làng     xuôi,  trong  đó  có  39  tác  giả  thơ  với  gần

               Dùm; Đỗ Minh Tuấn với Nỗi nhớ Lô Gâm,           100 bài thơ và 28 tác giả văn xuôi, kết hợp
   1100   1101   1102   1103   1104   1105   1106   1107   1108   1109   1110