Page 1110 - DIA CHI TUYEN QUANG_PHAN DAU
P. 1110

1110    ĐỊA CHÍ TUYÊN QUANG



               vọng tốt đẹp. Bài viết Ngoài bảy mươi cái       các bản vùng cao huyện Nà Hang đã phát
               lộc đời (1992) của Nguyễn Hoàng Đan ghi        huy nội lực để xóa đói, giảm nghèo; cùng
               lại cuộc đời đi theo cách mạng và gia cảnh      với những việc làm đó là sự hồi sinh của
               khó khăn của một cán bộ cách mạng. Bút          rừng  ở  các  vùng  lâm  nghiệp  Hàm  Yên;
               ký Đường lên cánh (1990) của Lê Hữu Chư        hoặc sức trẻ Sơn Dương đã làm thay đổi
               ghi nhận yếu tố chiến thắng đói nghèo từ        gia đình họ và quê hương; tại những vùng

               cây mía đi lên ở một xã miền núi huyện          đất còn hoang sơ của Hoàng Xu Phì và Xín
               Yên Sơn. Suy nghĩ từ Thăng Long (1989) của      Mần (Hà Giang), đồng bào vẫn giữ những
               Kim Thu ghi lại con đường đi lên của một        sinh hoạt hồn nhiên. Các bút ký trên là kết
               hợp  tác  xã  nông  nghiệp  bằng  cách  thay    quả của quá trình thâm nhập thực tế sau
               đổi cơ cấu sản xuất khoán 10. Mai Liễu có       hơn mười năm đổi mới.
               nhiều bút ký về rừng như Khi nghĩ về một           - Ký về sinh hoạt văn hóa và phong tục:
               rừng cây, Đau đáu cây rừng (1992), cho thấy         Với Nhật ký đại hội (1988), Triệu Đăng
               những trăn trở về tiềm năng kinh tế, văn        Khoa ghi lại tiến trình Đại hội Văn nghệ

               hóa và nguồn sống từ thiên nhiên. Bút ký        Hà Tuyên, đánh dấu một chặng đường đã
               Đến với rừng là đến với mùa xuân (1992) của     qua của văn nghệ tỉnh nhà. Bài Di tích lịch
               Phù Ninh cho thấy tiềm năng lâm nghiệp          sử với cuộc sống (1988) của Thái Thành Vân
               của Tuyên Quang. Bài viết Rừng mất mát          đã lược thuật các di tích lịch sử ở Tuyên
               và hy vọng (1992) của Lê Hữu Chư nói lên        Quang  và  bày  tỏ  tâm  huyết  muốn  phát
               những băn khoăn về sự tổn thất của kho          huy những giá trị văn hóa trên quê hương

               báu tài nguyên cùng phương hướng trồng          Tân Trào lịch sử. Qua bút ký Mùa xuân và
               và bảo vệ rừng. Một góc Thái Hòa (1992) của     lễ hội dân tộc Mông (1988), Đình Phúc muốn
               Nguyễn Quốc Trí ghi lại quá trình thay đổi      phác họa khung cảnh hồn nhiên với lễ hội
               cơ cấu kinh tế của một địa phương theo          “Gầu tào”. Chợ tình phong lưu của Hoàng
               hướng mới. Bút ký Những cây giống giữa          Quốc Kứu (1989) ghi lại mỹ tục độc đáo
               đời (1992) của Nguyễn Trọng Hùng nêu ra        của đồng bào các dân tộc thiểu số ở chợ
               một tấm gương cựu chiến binh làm giàu           Khau  Vai.  Đời  thường  là  cái  gần  gũi  với
               ở nông thôn bằng suy nghĩ và đôi tay cần        người lao động (1992) của Hoàng Lâm (bút

               cù lao động của mình. Cũng tác giả này          danh khác của Mai Liễu) thuật lại cuộc gặp
               còn có bài Nổi chìm đêm mất ngủ (1993) kể       mặt giữa Bí thư Tỉnh ủy Hà Thị Khiết với
               về những gian nan, vất vả trong quá trình       anh chị em trong Hội Văn học, nghệ thuật
               xây dựng một chiếc cầu qua sông. Tùy bút        Tuyên  Quang.  Sông  vào  phố  (1998)  của
               Xuân quê hương (2008) của Vũ Tuấn bày tỏ        Đinh Công Thủy là cảnh tượng về nạn lụt
               niềm tự hào được sống trên quê hương có         lội diễn ra hằng năm qua con mắt trẻ thơ,...

               bề dày lịch sử và văn hóa truyền thống;         Tập bút ký Ngược miền thông reo (2006) của
               còn tùy bút Người giữ lửa hồn làng (2008)     Cao Xuân Thái bao gồm hơn 20 bài viết về
               của anh ca ngợi lòng nhiệt tình, tấm gương      hành trình khám phá vùng cực Bắc của Tổ
               sáng của người chiến sĩ thương binh ở xã        quốc với những địa danh Đồng Văn, Mèo
               Hồng Lạc, huyện Sơn Dương,... Tiêu biểu         Vạc, Yên Minh, Xín Mần, Cổng Trời, Sơn
               là tập bút ký Dưới chân núi Bắc Quan (2002)     Vĩ, Mã Pí Lèng,... Đó là những vùng núi
               của Trịnh Thanh Phong gồm 13 bài, phản          cao,  nơi  cộng  đồng  các  dân  tộc  thiểu  số
               ánh hiện thực nông thôn miền núi thời đổi       Mông, Dao, Tày, Nùng, Pu Péo, Giấy... sống

               mới. Đồng bào các dân tộc Mông, Dao ở           gắn bó với thiên nhiên hào phóng mà khắc
   1105   1106   1107   1108   1109   1110   1111   1112   1113   1114   1115