Page 1084 - DIA CHI TUYEN QUANG
P. 1084
Từ điển Tuyên Quang 1085
các địa phương hoặc được sao chép lưu giữ ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm,
Viện Thông tin khoa học xã hội thường là những đạo sắc ban cấp cho một
địa phương cụ thể trong việc thờ thần, có thêm một nội dung quan trọng
nữa là tên thôn, xã, huyện, phủ nơi thờ thần và nhiệm vụ của địa phương
đối với thần (tôn vinh, thờ cúng) cũng như trách nhiệm của thần đối với
nhân dân địa phương (phù hộ, che chở...)...
21. THẦN TÍCH
Sự tích về thần, thờ ở các làng xã. Các bản thần tích cổ thường được biên
soạn theo một mẫu chung: gốc gác, công lao của thần khi còn sống cũng
như sau lúc mất, các danh hiệu được phong tặng.
22. THI ĐÌNH
Còn gọi là thi Điện (Điện thí), là kỳ thi xếp loại định thứ bậc những
người trúng tuyển thi Hội, tổ chức ở sân điện của nhà vua, cùng một
năm với thi Hội, sau khoảng vài tháng. Thí sinh phải làm bài Văn sách
đình đối do vua ra đề, có khi vua trực tiếp chấm và lấy đỗ. Những người
đỗ được phân ra ba cấp (tức giáp):
- Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ với 3 danh hiệu: Trạng nguyên (Đệ
nhất danh, thời Nguyễn không đặt), Bảng nhãn (Đệ nhị danh), Thám
hoa (Đệ tam danh).
- Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân, có 1 danh hiệu Hoàng giáp.
- Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, gọi chung là Tiến sĩ.
23. THI HỘI
Kỳ thi cho những người đã đỗ thi Hương và các giám sinh mãn khóa
Quốc Tử Giám, thường 3 năm 1 lần, tổ chức ở Kinh đô. Thí sinh phải
trải qua bốn kỳ: Kinh nghĩa (kỳ 1); chiếu, chế, biểu (kỳ 2); thơ, phú
(kỳ 3) và văn sách (kỳ 4). Những người đỗ thi Hội (gọi là trúng cách)
được phong danh hiệu: Thái học sinh (thời Lý, Trần), Tiến sĩ (thời Lê,
Nguyễn). Thời Nguyễn, từ khoa Kỷ Sửu (năm 1829) lấy thêm người đỗ
ở mức thấp gọi là Phó bảng (có điểm gần sát điểm trúng cách hoặc kỳ
thứ 4 bị loại, nhưng số điểm của 3 kỳ trước đạt điểm trúng cách).