Page 9 - Tuyên Quang trong cách mạng tháng Tám
P. 9
theo về Soi Sính ở cùng bác ta. Nhưng nghề thả bè trên sông không phải là chỗ
hoạt động của tôi, suốt ngày chỉ lênh đênh trên sông nước làm sao mà tiếp xúc
với quần chúng được. Sau đó tôi vào làm ở một đồn điền. Ở đấy non một năm
tôi nghe tin mỏ than đang tuyển thợ, tôi bèn rủ anh Nho, người bạn cày ở dưới
xuôi lên xin vào mỏ làm. Lúc đó khoảng tháng 4 năm 1936, sau khi dành dụm
được ít tiền đút lót cai xếp, tôi và anh Nho được nhận vào làm ở lò số 2.
Mỏ than Tuyên Quang do một công ty của tư bản Pháp thành lập năm
1924, có trên dưới một nghìn công nhân làm việc cho nhà máy sàng, nhà máy
điện và dưới hầm lò, ngoài ra còn có một số lớn phu chở thuyền sắt. Công nhân
ở đây phần lớn là dân quê ở các tỉnh Thái Bình, Nam Định, Hà Nam không có
ruộng phải kéo lên mạn ngược kiếm sống. Ngoài ra chủ mỏ còn cho người về
các mỏ than miền biển mua lại một số công nhân lên khai thác. Khi mộ phu
chúng hứa hẹn nào sẽ trả lương cao, nào được phát gạo, phát quần áo, nhưng
đến mỏ, người thợ chỉ thấy có dùi cui roi vọt làm mệnh lệnh, lấy bao tải làm cái
che thân suốt bốn mùa. Thợ mỏ lúc đầu sống giữa những xóm lao động tồi tàn
quanh thị xã, dần dần một số chuyển vào dựng nhà ngay trong khu mỏ để tiện đi
làm. Từ đó hình thành những xóm thợ thuyền chen chúc dưới các chân đồi ẩm
thấp, cạnh những vỉa than bùn đen lấy lội. Bệnh số rét và sâu quảng cùng nạn
thiếu ăn hàng năm đã làm nhiều người phải bỏ xác trên đất mỏ.
Ngày ngày tôi cùng anh em phu lò xuống dưới hầm sâu gần trăm thước,
men theo các đường hầm chạy ngang, cuốc và xúc than lên goòng rồi đẩy ra
miệng lò chuyển lên trên. Hễ thấy than kéo lên chậm là cai xếp ngồi trên miệng
lò nheo nhéo chửi vọng xuống. Ở đây nạn sụt lò, cháy ga là điều rất đáng sợ,
ngay cả ở lò lộ thiên cũng thường xảy ra nạn đất lở vùi chết người. Thợ nhà máy
ăn lương công nhật mỗi ngày phải làm việc từ 10 đến 12 giờ. Phu lò ăn lương
khoán tính theo số than xúc được nên phải làm không kể giờ giấc nào cả. Sáng
sáng khi sương đêm chưa tan người thợ dã vác cuốc, xẻng xuống lò. Suốt ngày
họ cởi trần làm việc dưới hầm sâu nóng như lò nung, khi lên khỏi lò thì trời vừa
tắt nắng. Cuộc đời thợ mỏ quanh năm chỉ làm bạn với bóng tối. Nhưng hiểm độc
nhất là nạn cúp phạt cùng nhiều thủ đoạn đê tiện khác của chủ mỏ và lũ tay chân
cai xếp luôn luôn tìm cách để ăn chặn lương thợ. Đến mỏ chưa được bao lâu tôi
đã thấy hết những thói bỉ ổi hách dịch của bọn cai. Chúng dựa thế chủ bắt thợ
phải đong gạo chịu do vợ con chúng bán ra, đến kỳ lương chúng trừ ngay ở
phòng giấy. Gạo của chúng thường là gạo hẩm nhưng giá lại cao hơn ở chợ.
Chúng còn mở sòng bạc rủ rê thợ đến chơi. Ai thua bạc chúng cho vay dể gỡ
gạc, người vay phải gán lương để trả nợ. Mỗi tháng hai kỳ lĩnh lương con nợ
ngồi hàng dẫy dài ở phòng giấy. Người thợ vừa cầm đến đồng lương về nhà thì
cũng hết nhẵn. Khổ cực nhất ở mỏ là chị em phụ nữ. Chị em thường phải làm
công việc nạo vét những cống rãnh, hôi hám, bẩn thỉu, nên phần nhiều đều bị
9