Page 429 - TQ - Thu do khu giai phong trong CMT8
P. 429

quần của phụ nữ có hai lần) . Đến thời Nguyễn, thế kỷ XIX, các
                                                           1
                             thành phần dân tộc ở Tuyên Quang đã được Quốc sử quán triều
                             Nguyễn ghi chép: "Nhân dân thì người Thanh, người Thổ, người
                             Nùng, người Mán,..." . Sách Đồng Khánh dư địa chí có nêu cụ
                                                    2
                             thể các dân tộc ở Tuyên Quang mà ngày nay chúng ta vẫn còn
                             gọi và biết được; ngoài một số người Kinh (ở Hàm Yên và Thu
                             Châu), còn lại là người Thổ (Tày), người Thanh, Nùng, Mán,
                             khách hộ và các tộc Bạch Miêu, Anh Miêu và Hắc Miêu . Hiện
                                                                                          3
                             nay "Tỉnh Tuyên Quang là địa bàn cư trú của 22 dân tộc anh
                             em"  cùng sinh sống, chiếm số đông là các dân tộc Tày, Nùng,
                                 4
                             Dao, Sán Dìu.
                                 Số đinh ở Tuyên Quang được ghi chép trong sách sử triều

                             Nguyễn: "Năm Gia Long thứ 18, số đinh 3.831 người" . Đến thời
                                                                                      5
                             Đồng Khánh có chép số  đinh: "Theo sổ cũ thì số  đinh 5.140
                             người, vì bị phỉ quấy nhiễu, dân xiêu tán" , tỉnh thần  đã cho
                                                                            6
                             chiêu dụ dân xiêu tán nhưng vẫn chưa trở về hết.
                                 Cư dân nơi đây ưa sống mộc mạc, "cư dân thì người Thanh,
                             người Thổ, người Nùng, người Mán  ở lẫn lộn với nhau, mỗi

                             chủng tộc nói  một thứ tiếng khác nhau;  đều là cần cù  làm
                             ruộng. Còn như cối giã gạo thì dùng sức nước, làm cọn để lấy
                             nước vào ruộng, đốt rừng làm nương, moi đất gieo hạt, ở bằng

                             nhà sàn, mặc ưa màu xanh, thì các chủng tộc đều giống nhau" .
                                                                                               7

                             ________________

                                 1. Lê Quý Đôn: Kiến văn tiểu lục, Sđd, tr.389-392.
                                 2, 5, 7. Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam nhất thống chí, Sđd,
                             t.4, tr.399.
                                 3, 6. Đồng Khánh dư địa chí, Sđd, t.1, tr.854, 856.
                                 4. Ninh Văn Độ (Chủ biên): Văn hóa truyền thống các dân tộc Tày,
                             Dao, Sán Dìu ở Tuyên Quang, Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 2003, tr.9.


                                                                                              431
   424   425   426   427   428   429   430   431   432   433   434