Page 434 - TQ - Thu do khu giai phong trong CMT8
P. 434
Hóa, Nghệ An,..., Hưng Hóa, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lạng
Sơn và phủ Trung Đô" . "Đầu đời Lê thuộc Tây đạo; đời Quang
1
Thuận đặt Tuyên Quang thừa tuyên, lãnh 1 phủ, và 5 huyện
châu; đời Hồng Thuận, đổi làm Minh Quang" . Sau kháng chiến
2
chống quân xâm lược nhà Minh, nhân dân miền núi do chiến
tranh và nhiều năm mất mùa đói kém lâm vào cảnh đói rét,
triều đình đã phát thóc trong kho công cho dân vay. Năm Mậu
Thìn (1448), mùa thu, tháng 7, "các trấn lộ Tuyên Quang, Quy
Hóa, Gia Hưng ở miền núi rừng hẻo lánh, ruộng đất sỏi đá xơ
xác, lại thêm liền năm bị hạn hán, sâu bọ, dân chúng rất đói.
Xin lấy thóc kho công cho dân vay, may ra dân được hồi sinh".
Bèn xuống chiếu phát thóc các kho trong xứ cho dân vay, đợi
khi được mùa thì trả lại cho nhà nước .
3
Thời Lê - Trịnh, cuối thế kỷ XVII, ở Tuyên Quang dòng họ
Vũ được quyền thế tập cai quản vùng này. "Từ đời Nguyên Hòa
về sau, họ Vũ ở Đại Đồng vì có công được thế tập gọi là dinh
Yên Tây (có chỗ chép là dinh Yên Bắc, đời Vĩnh Trị bắt đầu sai
quan cai trị đất ấy" . Dòng họ Vũ, vào năm Kỷ Dậu (1669), Gia
4
quốc công Vũ Văn Mật ở dinh Yên Bắc xứ Tuyên Quang, trong
thời kỳ khôi phục đất nước, đã đem theo nghĩa quân, có nhiều
công lao. Các triều trước vẫn để trấn giữ đất Tuyên Quang và
cho đời đời truyền nối. Con Mật là Thái phó Nhân quận công Vũ
Công Kỳ, cháu là Thái bảo Hòa quận công Vũ Đức Cung đều
biết nối theo chí người trước, kính giữ chức làm tôi,... .
5
________________
1, 4. Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam nhất thống chí, Sđd,
t.4, tr.318.
2, 3. Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê: Đại Việt sử ký toàn thư,
Sđd, t.II, tr.411, 362.
5. Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê: Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd,
t.3, tr.281.
436