Page 267 - Lịch sử Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang (1976 - 2005)
P. 267
Trong những năm 1998 - 2000, tỉnh đã chỉ đạo củng cố, sắp
xếp lại các doanh nghiệp nhà nước, tạo điều kiện để các doanh
nghiệp nhà nước vay vốn đầu tư phát triển sản xuất; đồng thời
từng bước nghiên cứu, áp dụng một số cơ chế, chính sách
bước đầu khuyến khích các doanh nghiệp ngoài quốc doanh,
nhất là doanh nghiệp tư nhân phát triển. Giá trị tổng sản lượng
công nghiệp, công nghiệp địa phương, công nghiệp ngoài quốc
doanh và các sản phẩm công nghiệp chủ yếu đều đạt và vượt
1
kế hoạch, năm sau cao hơn năm trước ; nhân dân tích cực
đóng góp để phát triển lưới điện nông thôn (riêng năm 1999,
nhân dân đóng góp trên 5 tỷ đồng). Từ năm 1996 đến năm
2000, giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân đạt 12,95%/
_______
đầu tư bước hai nhà máy gạch tuynen của Xí nghiệp gạch ngói số 3.
Đầu tư khai thác và chế biến các mỏ barit để nâng công suất lên trên
30 vạn tấn/năm; tìm đối tác để khai thác và chế biến đá cacbonat, chế
biến quặng măngan; chế biến quặng cao lanh fenspat. Tiếp tục đầu tư
cải tạo, đổi mới thiết bị Nhà máy chè Sông Lô, Nhà máy chè Tân
Trào. Nghiên cứu phát triển chế biến các loại hoa quả sau thu hoạch;
phát triển công nghiệp tiểu thủ công nghiệp chế biến nông, lâm sản và
các ngành nghề ở nông thôn. Tiếp tục thực hiện đề án phát triển lưới
điện giai đoạn 1998 - 2000; đầu tư cải tạo nâng công suất khai thác
nước ngầm ở thị xã Tuyên Quang, đầu tư cấp nước sinh hoạt cho các
huyện Sơn Dương, Hàm Yên, Chiêm Hoá, Na Hang, Yên Sơn.
1 . Năm 2000, một số sản phẩm chủ yếu trong năm đạt được: chè đen
2.694 tấn, xi măng 100.000 tấn, bột barít 10.000 tấn, gạch chỉ 52,5 triệu
viên; đường kính trắng 16.000 tấn. Đến cuối năm 2000 đạt 100% số xã,
phường, thị trấn có điện lưới quốc gia, 60% số hộ dân được dùng điện,
vượt 38% so với chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh đề ra. Sản
lượng điện thương phẩm đạt 71,6 triệu KWh, tăng 1,97 lần so với năm
1995.
269