Page 262 - Lịch sử Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang (1976 - 2005)
P. 262
thuật của tỉnh, các xã, hợp tác xã, đội sản xuất đã tổ chức
nhân dân đóng góp ngày công, nguyên vật liệu phụ trợ để
1
triển khai kiên cố hoá nhiều công trình thuỷ lợi .
Trong phát triển cây ăn quả, cây công nghiệp, Uỷ ban
nhân dân tỉnh đã xây dựng, chỉ đạo thực hiện dự án đầu tư
thâm canh, cải tạo phục hồi các nương chè, các dự án cải tạo
vườn tạp, trồng cam, quýt, vải, nhãn... Riêng năm 1999 đã
đầu tư cho các dự án thâm canh, cải tạo vườn chè là
10.927,1 triệu đồng; diện tích chè toàn tỉnh đạt 3.278 ha.
Thành lập bốn trung tâm cây ăn quả ở các huyện Chiêm
Hoá, Hàm Yên, Yên Sơn, Sơn Dương; tiến hành kiểm tra
sản xuất cây giống: nhãn, vải, cam, quýt trên địa bàn toàn
tỉnh.
Rừng là một trong những thế mạnh phát triển kinh tế của
tỉnh, song còn một số khó khăn, tồn tại, nhất là việc phân
định ba loại đất rừng trên thực địa. Từ năm 1993 về trước
một số hộ được giao đất lâm nghiệp với diện tích quá lớn
không đủ khả năng về vốn, lao động, vẫn còn để đất trống
hoặc đưa vào sản xuất nhưng hiệu quả thấp. Một số xã chưa
________
1 . Trong hai năm 1999-2000, toàn tỉnh xây kiên cố được 650 km
kênh mương (tổng chiều dài gấp 10 lần xây dựng từ năm 1998 trở về
trước). Riêng năm 2000, tập trung các nguồn vốn đầu tư 84,9 tỷ
đồng xây dựng và nâng cấp 293 công trình thủy lợi. Tỉnh thực hiện
chuyển giao các công trình thuỷ lợi cho xã, hợp tác xã quản lý, tổ
chức các nhóm quản lý sử dụng nước, nâng cao được hiệu quả tưới,
tiêu. Diện tích lúa được tưới trong năm 2000 đạt 25.174 ha, tăng
2.666 ha so với năm 1995.
264