Page 97 - DIA CHI TUYEN QUANG_PHAN DAU
P. 97
Phêìn thûá nhêët: TÛÅ NHIÏN VAÂ TAÂI NGUYÏN THIÏN NHIÏN 97
- Tầng 3: Chủ yếu là guột (Dicranopteris (Homalomena occculta (Lour) Schott), các
linearis), cỏ tranh (Imperata cyindrica), cỏ lào loài thuộc họ ráy (Araceae) khác...
(Eupatorium odoratum), lau (Saccharum Rừng thứ sinh cây ưa sáng tái sinh
spontaneum), cây cao dưới 2m. sau nương rẫy, cây chủ yếu là: hu đay
4- Rừng thứ sinh tự nhiên chưa có (Trema orientalis), me rừng (Phyllanthus
trữ lượng emblica), lá nến (Macaranga demticulata),
Thành phần loài cây ở đây chủ yếu thầu tấu (Aporosa dioica), bồ đề (Styrax
là tập đoàn cây tiên phong ưa sáng, mọc tonkinensis)...
nhanh. Rừng được chia thành 3 tầng: Tầng cây bụi có: tổ kén (Helicteres
- Tầng 1: Chủ yếu là hu đay (Trema hirsuta), đơn nem (Maesa acuminatessima).
orientalis), ngát (Gironniera subaequalis), Tầng dưới có các loài cây thảo như
lá nến răng (Mcaranga denticulata), thầu rau tầu bay (Gynura crepidioides), cứt lợn
tấu (Aporosa dioica); các loài cây này (Ageratum conyzoides), ngải cứu (Artemisia
thường cao không quá 15 m. vulgaris), đơn buốt (Bidens pilosa)...
- Tầng 2: Bao gồm một số loài thuộc họ 6- Rừng thứ sinh hỗn giao cây lá rộng -
sim (Myrtaceae), mua (Melastomataceae), tre nứa
cà phê (Rubiaceae), đơn nem (Myrsinaceae), Đây là loại hình rừng khá phổ biến ở
cam quýt (Imperata cylindrica)... cao 2 - 8 m. Tuyên Quang, có chế độ ẩm tốt, sườn dốc,
- Tầng 3: Là tầng cây thảo chủ yếu là ven suối, ven thung lũng hẹp. Kiểu rừng
cỏ lào (Eupatorium odoratum), cỏ tranh này có thể tồn tại trong một thời gian khá
(Imperata cylindrica), guột (Dicranopteris dài vì những cây gỗ còn sót lại như lim
linearis) cao không quá 2 m. (Erythrophleum fordii), trám (Canarium
album), ngát (Gironniera subaequalis)
+ Rừng thứ sinh nghèo không thể tái sinh trên đất trống. Cây con
Đây là kiểu rừng hình thành do của những loài cây gỗ dù có nẩy mầm
những cây gỗ có giá trị đã bị khai thác nhưng không thể cạnh tranh được với cỏ
hết. Những cây gỗ còn sót lại phân bố rải dại, tre nứa và chúng sẽ bị chết do thiếu
rác, không tạo thành rừng liên tục. Một ánh sáng. Tre (Bambusa bambos), nứa
số đại diện ở đây là gội (Aglaia gigantea), (Neohouzeana dlloa), chuối rừng (Musa
kè đuôi giông (Madhuca pasquieri), dâu coccinea Andr.) phát triển rất nhanh, tạo
da xoan (Allospondias lakonensis), xoan thành rừng tre nứa dầy đặc, nhất là ở
nhừ (Choerospondias axillaris). những nơi ẩm ven sườn dốc, khe núi đất.
Ngoài cây gỗ còn có tầng cây bụi, cỏ Tre nứa cao trung bình 7 - 10m, đường
quyết. kính thân tùy theo từng vùng, vùng nào
5- Rừng thứ sinh ưu thế cây lá rộng đất tốt, độ ẩm thích hợp thì có đường kính
ưa sáng lớn hơn các vùng đất xấu, khô cằn.
Bao gồm các rừng tái sinh sau khai Các vùng trước đây có cây gỗ quý
thác ven sông suối, thung lũng thấp, bị khai thác trắng, chỉ còn lại một số cây
ẩm; thành phần loài chủ yếu là các cây không có giá trị, thường ở vị trí sườn dốc
lá rộng, ưa sáng, mọc nhanh... Dưới suối khô hạn. Ở đây xuất hiện kiểu rừng cây lá
cạn có các loài ưa nước mọc xen kẽ với các rộng mọc hỗn giao với tre nứa. Tre nứa ở
tảng đá như loài thủy xương bồ (Acorus đây thấp và nhỏ hơn so với những vùng có
gramineus), ven suối có thiên niên kiện độ ẩm cao, tầng đất dầy.