Page 944 - DIA CHI TUYEN QUANG_PHAN DAU
P. 944

944     ĐỊA CHÍ TUYÊN QUANG



                   Về xây dựng cơ bản: 90% vốn kiến thiết      phương tiện, thuốc men và lực lượng cán
               cơ bản trong năm 1968 đã dành cho tuyến         bộ (xem Bảng 1 Phụ lục 1).
               huyện để sửa chữa và làm thêm cơ sở vật             Tỉnh  còn  chú  ý  đến  công  tác  chống
               chất  như  nhà  đông  y,  phòng  mổ,  phòng     chiến tranh vi trùng, chiến tranh hóa học
               điện quang, phòng răng, phòng phụ khoa.         của đế quốc Mỹ, bằng việc cử 1 bác sĩ dịch
                   Về lực lượng cán bộ: Đã đưa gần 200         tễ về Trung ương học, sau đó mở một lớp
               lượt  hộ  sinh,  y  sĩ  xuống  các  huyện  Nà   bồi dưỡng cho trên 20 cán bộ y tế huyện,
               Hang, Chiêm Hóa, Hàm Yên, Yên Sơn làm           thị  trong  7  ngày  về  vấn  đề  trên.  Vì  thế,
               công tác thực tế, vận động phong trào “3        khi địch thả côn trùng lạ xuống một số xã
               dứt  điểm”.  Năm  1968,  mỗi  huyện  được       trong tỉnh, ngành y tế đã phối hợp với một

               bổ sung thêm biên chế từ 5 đến 10 cán bộ,       số ngành liên quan phát hiện được sớm và
               gồm có y sĩ, y tá, nữ hộ sinh, dược tá, xét     có những biện pháp tiêu diệt kịp thời, nên
               nghiệm viên. Nhờ đó bệnh viện huyện đã          không xảy ra tác hại.
               đảm  nhận  được  nhiệm  vụ  chuyên  môn;            Cũng trong năm 1968, công tác điều trị
               chỉ  phải  chuyển  lên  tuyến  trên  những      hướng vào việc nâng cao năng lực tuyến
               bệnh  nhân  về  chuyên  khoa  hay  những        xã, tuyến cơ sở, tăng cường tuyến huyện,
               phẫu thuật phức tạp.                            củng cố tuyến tỉnh, nhằm kiện toàn công
                   -  Bệnh  viện  tuyến  tỉnh  tiếp  tục  được   tác điều trị hình bậc thang, tổ chức tốt việc
               củng  cố,  kiện  toàn  cơ  sở  vật  chất  cũng   cấp cứu phòng không. Công tác điều trị
               như về trình độ chuyên môn theo hướng           chuyên  khoa  cũng  tốt  hơn  khi  số  ngày
               chỉ đạo của Bộ Y tế. Các chuyên khoa lâm        điều  trị  khỏi  bệnh  cho  một  bệnh  nhân,
               sàng (nội, ngoại, sản, nhi, tai - mũi - họng,   cùng một loại bệnh, đã giảm từ 9,5 ngày
               răng  -  hàm  -  mặt)  và  cận  lâm  sàng  (xét   xuống còn 7,2 ngày; tỷ lệ tử vong chung và

               nghiệm,  sinh  hóa,  huyết  học,  X  quang)     tỷ lệ sản phụ tử vong cũng giảm. Do phát
               tiếp tục được tăng cường, củng cố về cơ         triển chuyên khoa và chỉ đạo tuyến được
               sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật, đào tạo   đẩy mạnh, nên số bệnh nhân phải chuyển
               cán bộ chuyên khoa.                             đi giảm còn một nửa so với năm 1967, mà
                   Công tác chỉ đạo tuyến được duy trì và      hầu  hết  là  bệnh  nhân  chuyên  khoa,  các
               đẩy mạnh, từ chỗ năm 1967 chỉ có chuyên         trường hợp cấp cứu đều được giải quyết
               khoa ngoại làm tốt công tác này, thì năm        tại chỗ.
               1968 các khoa Mắt, Răng - Hàm - Mặt... tuy          Công tác bảo vệ chăm sóc sức khỏe bà
               có khó khăn về biên chế và tổ chức, nhưng       mẹ và trẻ em bước đầu được chú trọng.
               cũng làm tốt công tác chỉ đạo phát triển,       Việc quản lý thai nghén nói chung tốt hơn,

               nhất là trong điều tra cơ bản.                  tỷ  lệ  thai  phụ  đến  nhà  hộ  sinh  đẻ  ngày
                   Năm  1968,  xảy  ra  dịch  cúm  mùa  rải    càng tăng; chị em phụ nữ đã hiểu biết và
               rác  ở  một  số  địa  phương,  đặc  biệt  tập   làm  theo  phương  pháp  khoa  học  về  vệ
               trung nhiều ở huyện Chiêm Hóa và huyện          sinh thai nghén. Mạng lưới điều trị bệnh
               Yên Sơn, tuy nhiên không nguy hiểm và           phụ khoa cũng được mở rộng.
               không  có  trường  hợp  tử  vong.  Một  số          Về cơ sở vật chất và lực lượng nhân
               dịch nguy hiểm khác vẫn xảy ra lẻ tẻ như        sự: Tính đến năm 1968, tỉnh đã có 2 bệnh
               thương hàn, viêm màng não, tuy số lượng         viện, 11 bệnh xá và 3 cơ sở điều dưỡng
               mắc ít, nhưng tỷ lệ tử vong khá cao. Công       riêng của các cơ sở với 322 giường bệnh
               tác giám sát, dự báo và quản lý ổ dịch giai     và 50 giường điều dưỡng. Bệnh viện tỉnh
               đoạn này còn khá nhiều hạn chế do thiếu         có 10 giường điều trị dành riêng cho cán
   939   940   941   942   943   944   945   946   947   948   949