Page 749 - DIA CHI TUYEN QUANG_PHAN DAU
P. 749

Chương VII
                                                        Chương I

                                                   TÀI CHÍNH
                             DÂN SỐ VÀ PHÂN BỐ DÂN CƯ





               I- TÀI CHÍNH TUYÊN QUaNG QUa CÁC THỜI KỲ             Cùng với việc thành lập kho bạc, từ
                                                               năm 1905, thực dân Pháp bắt đầu khai thác
                   1. Thời kỳ trước năm 1945
                                                               mỏ, gỗ và các lâm thổ sản quý, lập nhiều
                   Trước  năm  1902,  thực  dân  Pháp  áp      đồn điền ở Tuyên Quang. Chúng kết hợp
               dụng  nhiều  thứ  thuế  bất  công  cùng  với    cả  phương  thức  bóc  lột  phong  kiến  với
               chế độ phu phen, tạp dịch nặng nề và cho        phương  thức  bóc  lột  tư  bản  chủ  nghĩa.
               vay nặng lãi. Ngoài thuế đinh, thuế điền,       Công nhân nhận được những đồng lương
               thuế trâu bò; độc quyền muối, rượu, thuốc       chết đói, tá điền trong các đồn điền bị bòn

               phiện, thực dân Pháp còn đặt ra nhiều thứ       rút  đến  xương  tủy.  Ví  dụ  chủ  đồn  điền
               thuế vô lý như: thuế ngựa thồ, thuế dao         Anbe, phát cho người làm thuê 100 kg thóc
               tay (mức thuế là 0,5 đồng/người), thuế gia      giống/vụ, bắt họ phải nộp tô 50 phương
               ốc  (thuế  khói  lửa),  thuế  nuôi  quân,  thóc
               đầu mẫu... Người dân cũng còn phải nộp          lúa/vụ; địa chủ Lý Ân ở thượng huyện Yên
               lương  thực,  thực  phẩm  để  tiếp  đãi  bọn    Bình  cho  nông  dân  thuê  trâu,  thu  300kg
               quan  lại  kinh  lý  qua  địa  phương.  Năm     thóc/con/năm.
               1902, lần đầu tiên chính quyền thực dân             Từ năm 1919 đến năm 1929, nhằm tăng

               ban hành biểu thuế áp dụng với các dân          cường vơ vét thuộc địa, thực dân Pháp còn
               tộc  thiểu  số  vùng  cao,  thực  thi  từ  tháng   tăng mức thuế lên gấp hai lần. Đến năm
               1-1903,  trong  đó  quy  định:  Các  dân  tộc   1930, thuế lại tăng 15%. Để có tiền đóng
               thiểu số phải đóng một loại thuế đặc biệt,      thuế,  người  dân  phải  vay  nợ  lãi  của  các
               tính theo hộ gia đình, với định suất là: ở      nhà giàu với mức lãi có khi lên tới hàng
               Tuyên Quang và Yên Bái, các hộ nông dân         chục phần trăm (thị xã Tuyên Quang, mức

               có ruộng vùng thấp đóng 3,8 đồng/năm,           lãi vay lên tới 30%).
               vùng núi đóng 1,9 đồng/năm, các hộ buôn             2. Thời kỳ 1945-1954
               bán đóng 3,1 đồng/năm. Còn các dân đinh
               thuộc  dân  tộc  Thái  phải  đóng  thuế  thân       1- Từ năm 1945 đến năm 1946: những
               như dân đinh bản xứ ở vùng đồng bằng,           vấn đề kinh tế tài chính cấp bách
               tức  nội  đinh  đóng  2,5đồng/năm,  ngoại             Những  ngày  đầu  sau  Cách  mạng
               đinh đóng 0,3đồng/năm .                         Tháng Tám, công tác tài chính ở Tuyên Quang
                                        1




                   1. Arêté du 6 janvier 1903, du Gouverneur Général de L’Indochine, Modifiant l’impôt personnel
               Annamite au Tonkin, Trung tâm Lưu trữ quốc gia I, Hà Nội, phông RST, hồ sơ số 75.946.
   744   745   746   747   748   749   750   751   752   753   754