Page 754 - DIA CHI TUYEN QUANG_PHAN DAU
P. 754

754     ĐỊA CHÍ TUYÊN QUANG



               mới thành một số điểm cơ bản, trong đó          dân và góp phần bình ổn giá cả những thứ
               nhấn mạnh ba mũi nhọn là tài chính, ngân        hàng hóa chính trên thị trường.
               hàng, mậu dịch, mà tài chính là then chốt.          Căn cứ vào tình hình thực tế ở từng
               Từ năm 1951, Chính phủ thực hiện chính          thời điểm lịch sử, tỉnh đề ra những nhiệm
               sách  tài  chính  mới,  thống  nhất  quản  lý   vụ  trước  mắt  phải  tập  trung  giải  quyết,
               thu, chi tài chính từ Trung ương xuống địa      như: phát động quần chúng giảm tô, mua

               phương ; đồng thời kết hợp với các biện         công trái, huy động nhân lực, vật lực cho
                       1
               pháp tăng thu, giảm chi.                        kháng  chiến.  Nhưng  tỉnh  cũng  xác  định
                   Đại  hội  Đảng  bộ  Liên  khu  Việt  Bắc    phát  triển  sản  xuất,  thực  hành  tiết  kiệm
               lần thứ nhất (1951) đã vạch rõ nhiệm vụ         vẫn  là  công  tác  trung  tâm,  xuyên  suốt
               chung của Liên khu: “Hai nhiệm vụ chủ           của Đảng bộ và nhân dân Tuyên Quang.
               yếu nhất là quân sự và kinh tế - tài chính.     Năm 1952, Ty Tài chính được thành lập;
               Đối với các địa phương bị tạm chiếm và bị       Ty đã giúp tỉnh chỉ đạo tốt hơn việc quản
               trực tiếp uy hiếp thì lấy nhiệm vụ quân sự      lý, cân đối thu chi ngân sách, đầu tư cho
               làm trung tâm, đối với các tỉnh tự do thì       phát triển sản xuất, bình ổn vật giá, củng

               lấy nhiệm vụ phát triển kinh tế - tài chính     cố mạng lưới thương nghiệp, chống tham
               làm trung tâm” . Thực hiện chính sách tài       ô, lãng phí theo chính sách tài chính của
                               2
               chính mới, từ năm 1951, Chính phủ ban           Đảng và Nhà nước.
               hành hệ thống chính sách thuế mới, quản             Với diện tích ruộng đất là 65.700 mẫu
               lý  chặt  chẽ  các  khoản  thu  khác  và  thực   (căn cứ vào tài liệu tính thuế nông nghiệp
               hiện giảm chi. Hệ thống chính sách thuế         năm 1951), thuế nông nghiệp là một trong

               mới gồm bảy sắc thuế: thuế nông nghiệp,         những nguồn thu chính của Tuyên Quang.
               thuế  công  thương  nghiệp,  thuế  hàng         Tỉnh  thực  hiện  đánh  thuế  nặng  vào  địa
               hóa, thuế xuất nhập khẩu, thuế sát sinh,        chủ, phú nông; giảm nhẹ cho tầng lớp bần,
               thuế trước bạ và thuế tem. Ngoài các sắc        cố  nông  và  khuyến  khích  những  người
               thuế trên, Tuyên Quang cũng như các địa         trực  tiếp  lao  động  sản  xuất,  khai  hoang
               phương khác không được đặt ra bất kỳ sắc        tăng  vụ,  chiếu  cố  những  gia  đình  đông
               thuế nào khác. Mọi hình thức quyên góp,         người và ưu đãi gia đình quân nhân, liệt
               bổ bán đều bị nghiêm cấm, trừ trường hợp        sĩ. Kết quả ban đầu đạt được khá tốt. Năm

               nhân dân tự nguyện đóng góp ủng hộ bộ           1951, tuy là năm đầu thực hiện thu thuế
               đội, góp Quỹ nghĩa thương và cứu tế tai         nông nghiệp nhưng tỉnh đã thu được 7.346
               nạn.  Việc  tăng  giảm  mức  thu,  sắc  thuế,   tấn thóc, 5 tháng đầu năm 1952 thu thuế
               thuế suất đều do Chính phủ quyết định.          được 6.374,222 tấn thóc. Điển hình như ở
               Trong đó, thuế nông nghiệp là sắc thuế quan     xã Kháng Nhật (Sơn Dương) hoàn thành
               trọng  nhất  trong  chính  sách  thuế  mới.  Mục   nghĩa vụ thuế nông nghiệp sớm nhất huyện

               tiêu  của  thuế  này  là  đảm  bảo  cung  cấp   Sơn Dương. Huyện Chiêm Hóa cũng thu
               lương thực cần thiết cho kháng chiến, phát      thuế vượt mức tỉnh giao 200 tấn thóc. Xã
               triển sản xuất nông nghiệp, thống nhất và       Yên Nguyên (Chiêm Hóa) có 2 thôn nộp
               đơn giản hóa chế độ đóng góp của nhân           thuế xong trước thời hạn quy định.



                   1. Thông tư số 101/TTg ngày 18-7-1951 của Thủ tướng Chính phủ.
                   2. Văn kiện Đảng bộ Liên khu Việt Bắc năm 1951, Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Khu tự trị Việt Bắc
               xuất bản, 1961, t.VII, tr. 67.
   749   750   751   752   753   754   755   756   757   758   759