Page 729 - DIA CHI TUYEN QUANG
P. 729
730 Từ điển Tuyên Quang
chữa bệnh của người Tuyên 1749. RAU ĐẮNG
Quang. Bề ngoài rau dớn hơi Cây rau đắng vốn là một loại
giống cây dương xỉ nhưng nhỏ cây rừng, thường mọc ở khe núi,
và mỡ màng hơn, chồi non vươn ven rừng. Người dân một số địa
lên có hình móc câu. Rau dớn phương ở huyện Na Hang, huyện
hơi nhớt. Lá xanh mượt, mọc Chiêm Hóa đưa về trồng trên
so le, chồi non khi chưa mọc lá nương hay ở vườn nhà. Cây rau
sử dụng chế biến các món ăn là đắng phát triển mạnh nhất trong
ngon nhất. Cây rau dớn mọc sát mùa mưa và giữ được gốc qua mùa
các bờ suối, bờ sông, chịu bóng đông, xuân sang cây lá phát triển
và lũ lụt, nơi có độ ẩm cao. Nảy nhanh và gần như cho lá xanh tốt
lộc vào mùa xuân, có nơi thu quanh năm. Theo kinh nghiệm
hái được quanh năm do đất ẩm của người dân địa phương, những
ướt. Thời kỳ kháng chiến, rau lá mỏng, non có răng cưa sẽ đem
dớn là nguồn thực phẩm chính lại vị đắng đậm hơn là lá già.
của bộ đội, dân công. Có thể chế
biến nhiều cách như: luộc, xào Lá cây rau đắng dùng để nấu
tỏi, xào mẻ, xào lẫn tôm, thịt, canh, có thể nấu lá đắng với thịt lợn
làm nộm, nấu canh, v.v.. Người băm nhỏ, hoặc nấu với tiết lợn, gà...
Tuyên Quang còn ăn rau dớn để Lá đắng không chỉ ăn tươi, mà
chữa bệnh cảm, ho, viêm họng. còn có thể đem phơi khô, cất giữ
Rau dớn có đặc tính mát, lợi tiểu, đến lúc nào cần dùng thì đem rửa
nhuận tràng, giải nhiệt độc, đỡ sạch rồi nấu canh như mọi loại
đau lưng, an thần dễ ngủ, giúp rau khác.
cơ thể khỏe mạnh. Rau đắng không chỉ là thứ rau
dùng chế biến món ăn lạ miệng,
mà còn được xem như một loại
thảo dược có tác dụng chữa bệnh
đường ruột, chống đầy hơi, tiêu
mỡ và giải rượu.
1750. RAU SẮNG
(cg. rau ngót rừng), cao 3-5 m
hoặc cao hơn. Vỏ cây dày, màu
Rau dớn xào xám nhạt. Cành, lá non màu lục,