Page 354 - Tuyên Quang trong cách mạng tháng Tám
P. 354

muốn nuốt chửng cả bã. Rau ăn cũng hạn chế vì tiền mua rau có ít mà rau xanh

                     ở miền rừng lúc này rất hiếm. Nước chấm thì lấy muối pha với nước rau luộc,
                     giả vờ là nước mắm. Anh em phải vào rừng xung quanh hái nhiều thứ rau rừng
                     bù vào mới tạm đủ thức ăn. Rau tàu bay, rau cải rừng đều có thể làm canh được
                     cả. Tất nhiên chỉ có món muối vừng thì tương đối ''thoải mái''.

                           Trong cơ quan rất bình đẳng, phân công nhau bất kể trên dưới mỗi người
                     đều phải nấu cơm một ngày. Vì lúc đó chưa có biên chế anh nuôi chuyên trách.
                     Đến lượt tôi, qua một vài phiên làm ''anh nuôi'' tôi ''sáng tạo'' ra một món ăn đặc
                     biệt. Tôi hái khế rừng ở gần nhà, chọn quả gần chín, rửa sạch, thái lát mỏng, trộn

                     với muối vừng, rau tía tô (cũng hái ở rừng) và thêm vào ít ớt chỉ thiên chín đỏ
                     (cũng của rừng). Trộn lên thành một món ''nộm'' thật hấp dẫn. Cạnh màu nâu
                     của vừng là màu vàng của khế, màu xanh của tía tô, xen với màu đỏ của ớt.
                     Ngửi thấy thơm phức. Ăn vào thì vừa ngậy, vừa đậm, vừa chua chua, cay cay,

                     ngòn ngọt. Ai cũng xuýt xoa khen ngon và đúng là bao nhiêu cơm cũng hết. Có
                     một  điều, lúc ăn thì no căng, nhưng  chỉ mấy tiếng sau  là  đã đói. Phần  vì  cả
                     lương thực lẫn thực phẩm đều quá ''nghèo calo'', phần vì tất cả đều đang sức ăn,
                     sức  lớn  rất  chóng đói. Riêng tôi, cứ khoảng  10 giờ  rưỡi sáng  và  đến  lúc lên

                     giường đi ngủ là đã thấy đói cồn cào.
                           Đói và thiếu như vậy, nhưng chúng tôi không một ai, không lúc nào thấy
                     là khổ, vì tất cả đều đã chuẩn bị sẵn một tinh thần: "Sẽ còn đói hơn nữa, khổ hơn
                     nữa trong cuộc kháng chiến trường kỳ". Và lạ một điều, tất cả chúng tôi lúc nào

                     cũng vui, và nghĩ lại mới thấy trong cả cuộc đời hoạt động, những ngày tháng
                     này là thời kỳ chúng tôi được cười nhiều nhất.
                           Hơn năm chục năm qua, tôi đã về thành phố, đã đi nước ngoài, đã được ăn
                     nhiều món ngon, kể cả sơn hào, hải vị. Nhưng cho đến tận lúc viết mấy dòng hồi

                     ký này vẫn không sao quên được hương vị của món ''nộm'' ngày gian khổ ấy.

                                III- MỘT LẦN ĐI CÔNG TÁC HÀM YÊN ĐÁNG GHI NHỚ


                           Đầu 1949, tôi nhận nhiệm vụ làm việc với Huyện ủy Hàm Yên về công tác
                     cán bộ.
                           Tối hôm trước, tôi nghỉ ở nhà một đồng chí người Cao Lan ở Giếng Tanh,
                     Kim Thắng, Yên Sơn. Sáng hôm sau được chủ nhà đãi một bữa sắn luộc rồi tôi

                     lên đường. Quá Lang Quán một đoạn trên đường số 2 lên Hàm Yên thì bắt đầu
                     thấy đói. Đường còn dài, hàng quán dọc đường không có. Nhìn bên đường, phía
                     bên trái thấy có một vạt rừng toàn ổi. Nhìn kỹ thấy rất nhiều quả, phần lớn còn
                     xanh nhưng cũng lác đác có những quả hơi ương ương. Tôi sà vào và đi suốt dải

                     rừng đó, vừa đi vừa vít hái những quả ổi ương mà ăn. Có qua ''thực tiễn'' hái ổi
                     từ trên cây mới phát hiện một điều: Rất hay bị ổi đánh lừa. Đứng dưới nhìn lên
                     thấy hình như quả ổi đã chớm có màu vàng, tức là đã ương, nhưng lúc hái xuống


                                                                354
   349   350   351   352   353   354   355   356   357   358   359