Page 319 - Tuyên Quang trong cách mạng tháng Tám
P. 319
thực. Cụ Ké, mẹ chồng bà chủ nhà biết vậy, đưa cho chiếc rổ, chỉ ra khúc suối
gần nhà, bảo tôi chắn ngoài. Cụ tự mình lùa tay vào hang sâu, thấy động cá chạy
xô ra ngoài được lưng rổ toàn cá chép đuôi đỏ, có con tới 3-4 lạng. Nhờ bữa cá
ngon lành, sức khỏe tôi phục hồi nhanh. Thế nhưng cũng từ ngày đó, do phải di
chuyển liên tục theo yêu cầu nhiệm vụ của cơ quan, tôi không có dịp ghé thăm
lại cụ Ké để bày tỏ tình cảm biết ơn của mình đối với tấm lòng đôn hậu mà gia
đình đã thương yêu tôi như con cháu trong nhà.
Trước ngày có thuế nông nghiệp thu bằng thóc, nhất là những năm 1948-
1949 việc tiếp tế lương thực lên ATK Việt Bắc rất khó khăn. Có lúc cơ quan thiếu
gạo, cả Bộ trưởng và nhân viên, phải bữa cơm, bữa cháo hàng tháng. Không cam
chịu, bác Tài (bí danh của Bộ trưởng Lê Văn Hiến) là người khởi xướng phong
trào tăng gia tự cải thiện. Được gia đình cụ Tuyết nhường ruộng cho tập thể trồng
rau, bác phân công cho lớp trẻ chúng tôi thành nhóm nhỏ 2,3 người, mỗi nhóm
phụ trách một số diện tích nhất định. Bác hướng dẫn chúng tôi kỹ thuật trồng tỉa,
chăm sóc từng loại rau, cách chêm cuốc và động tác cuốc đất để không mệt,
không phồng tay. Sáng tinh mơ, bác cùng mang bình tưới, vun xới, thật sự giỏi
giang như một lão nông thuần thục. Lao động vất vả, nhưng được bù đắp bằng
những ruộng rau xanh tốt mượt mà, cà chua, su hào, rau đay, rau dền… mùa nào
rau ấy và nhất là những bữa ăn ngon miệng vui vẻ.
Ngoài tiêu chuẩn lương thực, thực phẩm được cơ quan tiếp tế phân phối
hàng tháng theo đầu người ra, có năm đơn vị còn nuôi gà, vịt, lợn và cả bê. Kết
quả chăn nuôi được chị Ngọc cấp dưỡng khéo chế biến, đóng góp bữa ăn thêm
thịnh soạn, nhất là những ngày lễ lớn của đất nước, ngày tết cổ truyền hoặc
những lần có khách ''Trung ương'' (các bác Phạm Văn Đồng, Nguyễn Lương
Bằng, Nguyễn Khánh Toàn) ghé thăm, lưu lại cơ quan dùng cơm với tập thể.
Được chung sống phục vụ bác Tài, lớp trẻ chúng tôi còn được bác hết lòng
thương yêu dạy dỗ. Là thủ trưởng, có khi lớp trẻ chúng tôi mải chơi, có khuyết
điểm, nhưng chẳng bao giờ Bác to tiếng quát mắng. Gặp khi mắc lỗi, có bạn sợ
hãi lánh mặt, nhưng khi gặp bác, bác rất nhẹ nhàng ôn tồn, chỉ bảo. Chính vì thế
không ai dám tái phạm.
Hồi ấy trong các cơ quan kháng chiến, còn có phong trào học tập văn hóa.
Văn phòng Bộ trưởng, sau giờ làm việc còn là lớp dạy văn hóa. Thầy giáo nhiệt
tình dạy dỗ, kèm cặp có bác Hà Trường Thịnh, Phạm Khắc Huyên. Lớp trẻ
chúng tôi ngày đi công tác, phục vụ lãnh đạo cơ quan, còn thì giờ rảnh rỗi lại lao
vào học tập. Lớp học văn hóa của Văn phòng Bộ trưởng giữa rừng sâu, trong
gian khổ, thiếu thốn, tạo nên sự gắn bó mật thiết giữa các thế hệ cán bộ, nhân
viên, không phân biệt cấp trên cấp dưới, thể hiện tình thầy trò, đồng đội, đồng
chí ấm áp tình người…
Cuối năm 1951, tôi được Bộ Tài chính cử đi học, rồi sau đó công tác ở
nhiều đơn vị khác nhau. Sau này gặp lại bác Tài, bác vẫn ân cần thăm hỏi, động
319