Page 323 - Tuyên Quang trong cách mạng tháng Tám
P. 323

ghi 4 câu thơ. Trước khi ra về, Đại tướng Võ Nguyên Giáp có ghi cảm tưởng

                     vào quyển sổ lưu niệm (quyển sổ vàng đó các anh lãnh đạo Hiệu đoàn giữ).
                            Mười ngày sau, Trường được lệnh sơ tán, chuẩn bị chiến dịch Thu - đông.
                     Chừng hai tuần sau, quân đội viễn chinh Pháp từ Tuyên Quang lên đóng quân ở
                     Chiêm Hoá, vào địa điểm của trường đốt phòng mổ, buồng bệnh, giảng đường.

                     Sau thất bại chiến dịch Thu - đông, quân Pháp rút chạy. Trường được xây dựng
                     lại ở Ngòi Quẵng, Chiêm Hoá, rồi tiếp tục giảng dạy. Cuối năm 1948 trường
                     chuyển về Trung Giã (Phú Thọ). Sinh viên phục vụ trong các đơn vị quân đội từ
                     Liên khu 3, 4, Tây Bắc về học. Tổng số sinh viên lên đến hơn 50. Đầu tháng 5 -

                     1949, một khoá sinh viên Y4 được bổ sung sang quân y. Sinh viên từ các đơn vị
                     chiến đấu về Trường học bổ túc một thời gian rồi lại trở về đơn vị. Mỗi lần tiễn
                     các trò về đơn vị cũ, giáo sư Hồ Đắc Di, giáo sư Tôn thất Tùng thoáng vẻ trầm
                     lặng. Giáo sư tự hỏi lần tựu trường sau sẽ có thiếu trò nào không? Năm 1949,

                     hai bạn đồng khoá của chúng tôi đã hy sinh trong khi đang làm nhiệm vụ cứu
                     chữa thương binh ở mặt trận Liên khu 3.
                            Thu - đông 1949, quân đội Pháp tiến công từ Việt Trì lên, vào Trung Gĩa
                     đốt phá trường. Trường chuyển về Chiêm Hoá lần thứ hai. Giáo sư Đặng Văn

                     Ngữ từ Nhật về, lên Việt Bắc giảng dạy tại trường. Phòng xét nghiệm được xây
                     dựng. Giáo sư Đặng Văn Ngữ cùng nhóm nghiên cứu sản xuất Filtrat Péncilline
                     điều trị thương binh. Thời gian sau, giáo sư Đặng Vũ Hỷ từ Liên khu ba lên
                     giảng dạy ở trường. Kể từ năm 1947, các sinh viên Y6 phụ trách quân y ở các

                     đơn vị quân đội lần lượt thi tốt nghiệp bác sỹ y khoa. Năm 1949, bác sỹ Nguyễn
                     Dương Quang và một sinh viên được giữ lại Trường tham gia giảng dạy và phụ
                     đạo. Trường chiêu sinh các khoá Y50, Y52, các đội phẫu thuật trực thuộc Cục
                     Quân y, các bệnh viện dã chiến. Giáo sư Tôn Thất Tùng, anh Nguyễn Dương

                     Quang, và các cán bộ của trường đã tham gia chiến dịch Trung du 1949, đội
                     phẫu thuật dã  chiến ở  Dốc Bùa,  chân  núi Tam Đảo. Ở đây, các  anh  Nguyễn
                     Xuân Ty, Vi Huyền Trác, Trần Lưu Khôi có dịp làm việc cùng thày Tùng, thày
                     Cơ. Tôi phục vụ một đơn vị thuộc Đại đoàn 308, chặn đánh địch ở sông Lô.

                            Với chiến thắng giải phóng biên giới năm 1950, Trường thêm lớn mạnh.
                     Thư viện Trường được nhận thêm nhiều sách báo y học mới. Nhà trường kết
                     hợp đào tạo và thực tế chiến đấu trong các chiến dịch, đỉnh cao là chiến dịch
                     Điện Biên Phủ. Giáo sư Tôn Thất Tùng trực tiếp mổ cứu chữa thương binh nặng

                     bị thương sọ não tại Đội điều trị I ( Đội phẫu thuật thời đó gọi là Đội điều trị) do
                     bác sỹ Đào Bá Khu phụ trách. Trong Đội điều trị I còn có anh Nguyễn Dương
                     Quang và một số cán bộ của Trường, phẫu thuật viên có các anh Nguyễn Xuân
                     Ty, Vi Huyền Trác, Trấn Lưu Khôi. Đại đoàn 308 có anh Vũ Tam Hoán, Đại

                     đoàn 312, anh Nguyễn Văn Nhân. Đại đoàn 304 có anh Bùi Thế Kỳ và tôi. Đại
                     đoàn 316. phụ trách Đội điều trị Cục và mổ có các anh Bửu Triều, Trấn Mạnh




                                                                323
   318   319   320   321   322   323   324   325   326   327   328