Page 26 - Tuyên Quang trong cách mạng tháng Tám
P. 26

Sơn -Võ Nhai, Cứu quốc quân đã xây dựng được cơ sở cách mạng ở hầu hết các

                     tỉnh Thái Nguyên, Tuyên Quang, một phần Lạng Sơn, Bắc Cạn, Bắc Giang.
                            Tháng 2-1944, Trung ương Đảng cử đồng chí Hoàng Quốc Việt lên kiểm
                     tra tình hình. Qua kiểm tra phong trào, đồng chí quyết định chia căn cứ địa cách
                     mạng thành hai phân khu: Phân khu A và phân khu B tức phân khu Nguyễn

                     Huệ. sông Cầu được chọn là ranh giới tự nhiên giữa hai phân khu. Phân khu A
                     có Bình Gia, Bắc Sơn (Lạng Sơn), Hữu Lũng, Yên Thế (Bắc Giang),Võ Nhai và
                     một phần Đồng Hỷ (Thái nguyên). Võ Nhai là trung tâm phân khu A. Ở đó có
                     ban lãnh đạo phân khu và trung đội Cứu quốc quân II. Phân khu B có Chợ Đồn,

                     Bạch Thông (Bắc Cạn), Định Hoá, Phú Lương, Đại Từ, phần còn lại của Đồng
                     Hỷ (Thái Nguyên), Lập Thạch (Vĩnh Yên) và Phú Thọ, Tuyên Quang. Ao Búc
                     thuộc xã Thanh La (Sơn Dương, Tuyên Quang) là nơi đóng của cơ quan lãnh
                     đạo Phân khu B. Nhận thấy lực lượng Việt Minh phát triển mạnh, Trung ương

                     chủ trương xây dựng thêm lực lượng võ trang để đẩy mạnh thêm phong trào đấu
                     tranh của quần chúng, làm nòng cốt cho khởi nghĩa sau này. Ngày 25-2-1944,
                     Tại  Khuổi  Kịch  (Sơn  Dương  -  Tuyên  Quang),  Trung  đội  Cứu  quốc  quân  III
                     được thành lập, đặt dưới sự chỉ huy trực tiếp của Ban lãnh đạo phân khu B. Đó

                     là  đơn vị nòng  cốt trong việc  xây dựng,  phát  triển lực  lượng  Việt  Minh, lực
                     lượng tự vệ trên địa bàn Đại Từ, Định Hoá (Thái Nguyên), Sơn Dương, Yên
                     Sơn, Chiêm Hoá, Hàm Yên (Tuyên Quang). Và một bộ phận đã phát triển đến
                     xã Vĩnh Hảo, huyện Bắc Quang (Hà Giang) .
                                                                         1
                            Việc ra đời của Cứu quốc quân I, II, III   có tác dụng thúc đẩy phong trào
                     cách mạng ở các vùng căn cứ địa. Dưới sự chỉ đạo của Ban lãnh đạo phân khu
                     B, phong trào cách mạng có bước chuyển biến mạnh (giữa năm  1944) ở các
                     huyện Na Hang, Chiêm Hoá, Hàm Yên, Yên Sơn, Sơn Dương. Các thôn như

                     Khuôn Trạn, Khuổi  Kịch, Ao  Búc, Khuôn  Trút  ...  (Tuyên Quang), Phù  Ninh
                     (Phú Thọ), nhân dân đều tham gia các tổ chức cứu quốc của Việt Minh.
                            Tháng  8-1944,  lãnh  đạo  phân  khu  B  quyết  định  mở  rộng  phong  trào
                     xuống vùng trung, hạ huyện Sơn Dương (Tuyên Quang).

                            Thực hiện chủ trương này, đồng chí Dục Tôn cùng một số đội viên cứu quốc
                     đã xây dựng cơ sở cách mạng ở dọc chân núi Bầu và Tam Đảo để sau đó phát triển
                     dần về phía nam huyện Sơn Dương tỉnh Tuyên Quang.
                             Phong trào Việt Minh tiếp tục phát triển đến vùng đồng bào dân tộc Dao,

                     Tày, Cao Lan, Sán Chỉ, Sán Dìu.







                     1
                        Đội Cứu quốc quân I thành lập ở Bắc Sơn. Đội Cứu quốc quân II thành lập ở Võ Nhai. Đội Cứu quốc quân III
                     thành lập ngày 25 -02 - 1944, tại Khuổi Kịch (Sơn Dương) gồm 24 đồng chí. Đồng chí Hoàng Quốc Việt thay
                     mặt Trung ương đã trao nhiệm vụ cho đội.

                                                                  26
   21   22   23   24   25   26   27   28   29   30   31